Titikes
New Member
Bản chất của Phân tích kỹ thuật
I. Giới thiệu
Những cảm xúc của chúng ta thường ảnh hưởng rất lớn đến những phán quyết quá nhanh hay làm vấn đề thêm rắc rối. Vì sao lại thế, nó phụ thuộc hoàn toàn vào cảm xúc của người kinh doanh, chúng ta nên cố gắng đơn giản hoá những cái có thể xảy ra, thường thì những quyết định xảy ra rất nhanh và phải chính xác đến từng giây. Albert Einstein từng nói: “ Không có thứ gì có thể đơn giản bằng việc đơn giản hoá những vấn đề hóc búa”.
Những công cụ phân tích kỹ thuật thường được sử dụng trong đồ thị ngày:
• Đồ thị nến (Candle stick)
• Khối lượng giao dịch (Volume)
• Equivolume
• Đường trung bình giá (Moving Average)
• Chỉ báo lực (Force Index)
• Hướng di chuyển đường giá (DMI)
II. Tại sao nên sử dụng Phân tích kỹ thuật?
Một cách đơn giản bởi phần lớn những nhà đầu tư chuyên nghiệp không cho phép bỏ sót những dấu hiệu đáng kể ẩn dấu phía dưới đối với những quan điểm của xu hướng thị trường: Khối lượng giao dịch cung cấp những manh mối cũng như là cường độ của sự dịch chuyển giá.
Chìa khoá tâm lý: “Bạn đang kinh doanh con người chứ không phải cổ phiếu hay cổ phần. Con người thì không bao giờ thay đổi… phần lớn nhà đầu tư luôn vấp phải những sai lầm và những sai lầm này luôn lặp đi lặp lại… đây là điều vô cùng may mắn của chúng ta”. Hãy suy nghĩ thấu đáo và đọc đi đọc lại dòng lý luận trên bạn sẽ vỡ ra rất nhiều vấn đề.
III. Những vấn đề cơ bản
Giá chứng khoán được đo lường bởi sự thay đổi giữa người bán và người mua. Nếu vấn đề xảy ra của người mua lớn hơn người bán thì thị trường đang trong giai đoạn tăng. Trái ngược lại, nếu những vấn đề xảy ra của người bán lớn hơn người mua thì thị trường đang trong giai đoạn giảm. Theo logic đó thì để xác định được giá của một chứng khoán nào đó là tập hợp những cảm xúc trong những phán quyết của nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư đó là dài hạn và chứng khoán cũng bắt đầu giảm, thì nhà đầu tư đó nên bắt buộc đóng hết các trạng thái mua và bán. Nếu ngắn hạn, anh ta nên thắp nhang cầu nguyện cho chứng khoán tăng trở lại.
Khi nhà đầu tư đang ở trạng thái đầu tư dài hạn, thì anh ta đã trở thành vị thế của người bán, trong khi trạng thái ngắn hạn lại là người đã giữ bởi vị thế là người mua. Giá thay đổi ngắn hạn do áp lực mua và bán, những thông tin về điều kiện của chứng khoán sẽ được tiết lộ bởi sự phối hợp của những hành động đường đường giá và khối lượng giao dịch.
IV. Đồ thị nến
Trong những năm 1600, người Nhật đã tạo ra một phương pháp phân tích kỹ thuật để phân tích giá của thị trường kỳ hạn hàng hoá gạo. Đây là một kỹ thuật sử dụng và được gọi là đồ thị nến. Ông Steven Nilson đã đưa kỹ thuật đồ thị nến này phổ cập hơn và bây giờ chúng được thừa nhận như là một chuyên gia hàng đầu trong việc diễn giải sự biến động giá.
Một nến thường phải có giá mở cửa, cao nhất, thấp nhất, đóng cửa và giống như định dạng của mẫu đồ thị dạng thanh (bar). Nhưng chúng làm đơn giản hoá hình ảnh quan hệ giữa giá mở cửa và đóng cửa. Đồ thị nến rất đơn giản để nhận diện sự biến động giá, chúng không bao hàm bất cứ một phép tính nào.
V. Khối lượng giao dịch
Khối lượng giao dịch là một con số đơn giản của số cổ phiếu mà nhà đầu tư trao đổi trong một khung thời gian nhất định (giờ, ngày, tuần, tháng…). Phân tích khối lượng giao dịch là một việc làm rất quan trọng trong phân tích kỹ thuật. Khối lượng giao dịch thường cung cấp những manh mối về cường độ của sự biến động giá.
Vùng có khối lượng giao dịch cao thường là đặc tính của đỉnh thị trường khi có sự đồng thuận mạnh về giá sẽ tăng cao hơn. Vùng có khối lượng giao dịch cao cũng rất thường xảy ra ở những nơi bắt đầu của một xu hướng mới (khi đường giá phá vỡ khoảng giá nào đó). Cũng như trước khi thị trường xác lập đáy thì khối lượng giao dịch thường tăng mạnh vì khuynh hướng hoảng sợ dẫn đến hành động bán tháo.
Khối lượng giao dịch có thể trợ giúp chúng ta đo lường sức mạnh của xu hướng giá hiện tại. Xu hướng tăng mạnh thường có hiện tượng khối lượng giao dịch lớn trong giai đoạn tăng lên của xu hướng thị trường và khối lượng giao dịch thấp ở giai đoạn giảm (điều chỉnh). Giống như thế, xu hướng giảm mạnh có hiện tượng khối lượng giao dịch lớn trong giai đoạn giảm của một xu hướng và khối lượng giao dịch thấp trong giai đoạn tăng (điều chỉnh).
VI. Equivolume
• Equivolume là kiểu hiển thị giá làm nổi bật mối quan hệ giữa giá và khối lượng giao dịch. Equivolume được Richard W. Arms, Jr. sáng chế và được giải thích khá chi tiết trong cuốn sách “Volume Cycle In Stock Market”
• Để thay thế cho màn hình khối lượng giao dịch thường nằm phía dưới của đồ thị giá. Equivolume là sự kết hợp giữa giá và khối lượng giao dịch bằng kích thước 2 chiều của hình hộp. Đỉnh hộp là giá cao nhất, đáy hộp là giá thấp nhất. Độ rộng của cái hộp là nét đặc biệt duy nhất của Equivolume – nó biểu trưng cho khối lượng giao dịch trong phiên giao dịch.
Hình dạng của mỗi cái hộp Equivolume cung cấp trực quan bằng hình ảnh của cung và cầu cho mã chứng khoán xảy ra ở phiên giao dịch đặc biệt. Một cái hộp ngắn và rộng (khối lượng giao dịch của mã chứng khoán mạnh và sự thay đổi giá nhỏ) khuynh hướng sẽ xảy ra điểm ngoặt. Trong khi cái hộp cao và hẹp (khối lượng giao dịch của mã chứng khoán yếu và sự thay đổi giá lớn) rất có thể xảy ra củng cố hay thiết lập xu hướng.
Đặc biệt quan trọng là sử dụng cái hộp đó để nhận biết sự xuyên thủng vùng hỗ trợ hoặc kháng cự. Từ đó khối lượng giao dịch xác nhận sự khả thi của sự xuyên thủng này.
Một “Power box” là cái hộp có cả độ cao và độ rộng thực chất tăng. “Power box” là một tín hiệu xác nhận rất tốt khi xảy ra hiện tượng “breakout”. Hộp hẹp do khối lượng giao dịch yếu gây ra vẻ nghi ngại tính hiệu dụng của “breakout”.
Chúng ta thường nhìn vào khối lượng giao dịch trong mối quan hệ với sự vận động giá:
• Điểm đảo chiều xu hướng
+ Trên – mức trung bình khối lượng giao dịch cùng với sự biến động giá nhỏ.
+ Trên – mức trung bình khối lượng giao dịch sau khi ôm sát sự gia tăng hoặc sự suy giảm.
• Tiếp tục xu hướng
+ Trên – mức trung bình khối lượng giao dịch với sự biến động giá mạnh.
+ Trên – mức trung bình khối lượng giao dịch với sự breakout.
+ Dưới – mức trung bình với không có sự biến động giá.
VII. Đường trung bình giá (MA)
Moving Average (MA) là một chỉ báo biểu thị giá trị trung bình của giá chứng khoán trong một khoảng thời gian nhất định. Khi tính toán MA, phân tích toán học của giá trị trung bình trên một số phiên giao dịch được xác định trước. Khi giá cổ phiếu thay đổi, thì dẫn đến giá trị trung bình đó sẽ dịch chuyển tăng hoặc giảm.
SMA = (P1 + P2 + … + Pn)/n
• P: giá bắt đầu tính trung bình
• n: số ngày tính trong MA
Có 5 thể loại phổ biến của MA: Simple, Exponential, Triangular, Veriable và Weighted. MA có thể được tính toán trong dãy số liệu chứa trong một cổ phần như: giá mở cửa, cao nhất, thấp nhất, đóng cửa, khối lượng giao dịch hoặc chỉ báo kỹ thuật khác.
Phổ biến nhất là người ta sử dụng SMA với số kỳ là 10, 20, và 50 ngày của giá đóng cửa.
VIII. Chỉ báo lực (Force Index)
Chỉ bào lực (FI) là một chỉ báo kỹ thuật về dao động và được Alexander Elder sáng tạo ra, được giới thiệu trong cuốn sách “Trading for a Living”.
FI là sự kết hợp 3 bộ phận lớn của thông tin thị trường:
• Hướng đi của sự thay đổi đường giá (khác hướng di chuyển của đường giá)
• Phạm vi
• Khối lượng mua bán
Đây là cách mới để đưa khối lượng giao dịch tiến tới những phán quyết trong kinh doanh:
FI = Vol(hôm nay) x [ giá đóng cửa (hôm nay) – giá đóng cửa (hôm qua)]
Mặc dù FI cũng có thể được sử dụng thô nhưng chúng thường được làm mềm hay mượt hơn (smooth) bằng đường trung bình của chúng trong các kỳ 3 ngày và 13 ngày.
MA(3) của FI là một chỉ báo kỹ thuật rất nhạy, biểu thị cho chiến thuật ngắn hạn giữa thị trường tăng (bulls) và giảm (bears). MA(13) của FI được nhận dạng là chiến thuật dài hạn hơn giữa thị trường tăng và giảm.
IX. Hướng di chuyển đường giá (DMI)
Directional Moving Index (DMI) là loại chỉ báo kỹ thuật hàm ý xu hướng tiếp theo (trend-following) được ông J. Welles Wilder, Jr. sáng lập, nó được thiết kế để đo lường chứng khoán đó có xu hướng hay không có xu hướng thị trường. Theo thống kê trong thị trường có khoảng 30% thời gian là xảy ra có xu hướng mạnh và có khoảng 70% thời gian là thị trường lình xình (sideways). Đây là chỉ báo kỹ thuật được sử dụng để nhận biết những phiên khi thị trường biểu thị xu hướng rõ ràng hoặc trạng thái có đường hướng.
Công thức tính toán của DMI khá phức tạp vì nó bao gồm 3 đường:
• +DI: Chỉ báo hướng tích cực hiện hành, là phần chia cao bởi khoảng giá trên ngày áp chót và giá đóng cửa ngày hôm trước, được làm mềm bằng chia cho số phiên giao dịch
• -DI: Chỉ báo hướng tiêu cực hiện hành, là phần chia thấp bởi khoảng giá trên ngày áp chót và giá đóng cửa ngày hôm trước, được làm mềm bằng chia cho số phiên giao dịch
• ADX: Trung bình thay đổi của sự khác biệt giữa +DI và –DI chia cho tổng +DI và –DI nhân 100
I. Giới thiệu
Những cảm xúc của chúng ta thường ảnh hưởng rất lớn đến những phán quyết quá nhanh hay làm vấn đề thêm rắc rối. Vì sao lại thế, nó phụ thuộc hoàn toàn vào cảm xúc của người kinh doanh, chúng ta nên cố gắng đơn giản hoá những cái có thể xảy ra, thường thì những quyết định xảy ra rất nhanh và phải chính xác đến từng giây. Albert Einstein từng nói: “ Không có thứ gì có thể đơn giản bằng việc đơn giản hoá những vấn đề hóc búa”.
Những công cụ phân tích kỹ thuật thường được sử dụng trong đồ thị ngày:
• Đồ thị nến (Candle stick)
• Khối lượng giao dịch (Volume)
• Equivolume
• Đường trung bình giá (Moving Average)
• Chỉ báo lực (Force Index)
• Hướng di chuyển đường giá (DMI)
II. Tại sao nên sử dụng Phân tích kỹ thuật?
Một cách đơn giản bởi phần lớn những nhà đầu tư chuyên nghiệp không cho phép bỏ sót những dấu hiệu đáng kể ẩn dấu phía dưới đối với những quan điểm của xu hướng thị trường: Khối lượng giao dịch cung cấp những manh mối cũng như là cường độ của sự dịch chuyển giá.
Chìa khoá tâm lý: “Bạn đang kinh doanh con người chứ không phải cổ phiếu hay cổ phần. Con người thì không bao giờ thay đổi… phần lớn nhà đầu tư luôn vấp phải những sai lầm và những sai lầm này luôn lặp đi lặp lại… đây là điều vô cùng may mắn của chúng ta”. Hãy suy nghĩ thấu đáo và đọc đi đọc lại dòng lý luận trên bạn sẽ vỡ ra rất nhiều vấn đề.
III. Những vấn đề cơ bản
Giá chứng khoán được đo lường bởi sự thay đổi giữa người bán và người mua. Nếu vấn đề xảy ra của người mua lớn hơn người bán thì thị trường đang trong giai đoạn tăng. Trái ngược lại, nếu những vấn đề xảy ra của người bán lớn hơn người mua thì thị trường đang trong giai đoạn giảm. Theo logic đó thì để xác định được giá của một chứng khoán nào đó là tập hợp những cảm xúc trong những phán quyết của nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư đó là dài hạn và chứng khoán cũng bắt đầu giảm, thì nhà đầu tư đó nên bắt buộc đóng hết các trạng thái mua và bán. Nếu ngắn hạn, anh ta nên thắp nhang cầu nguyện cho chứng khoán tăng trở lại.
Khi nhà đầu tư đang ở trạng thái đầu tư dài hạn, thì anh ta đã trở thành vị thế của người bán, trong khi trạng thái ngắn hạn lại là người đã giữ bởi vị thế là người mua. Giá thay đổi ngắn hạn do áp lực mua và bán, những thông tin về điều kiện của chứng khoán sẽ được tiết lộ bởi sự phối hợp của những hành động đường đường giá và khối lượng giao dịch.
IV. Đồ thị nến
Trong những năm 1600, người Nhật đã tạo ra một phương pháp phân tích kỹ thuật để phân tích giá của thị trường kỳ hạn hàng hoá gạo. Đây là một kỹ thuật sử dụng và được gọi là đồ thị nến. Ông Steven Nilson đã đưa kỹ thuật đồ thị nến này phổ cập hơn và bây giờ chúng được thừa nhận như là một chuyên gia hàng đầu trong việc diễn giải sự biến động giá.
Một nến thường phải có giá mở cửa, cao nhất, thấp nhất, đóng cửa và giống như định dạng của mẫu đồ thị dạng thanh (bar). Nhưng chúng làm đơn giản hoá hình ảnh quan hệ giữa giá mở cửa và đóng cửa. Đồ thị nến rất đơn giản để nhận diện sự biến động giá, chúng không bao hàm bất cứ một phép tính nào.
V. Khối lượng giao dịch
Khối lượng giao dịch là một con số đơn giản của số cổ phiếu mà nhà đầu tư trao đổi trong một khung thời gian nhất định (giờ, ngày, tuần, tháng…). Phân tích khối lượng giao dịch là một việc làm rất quan trọng trong phân tích kỹ thuật. Khối lượng giao dịch thường cung cấp những manh mối về cường độ của sự biến động giá.
Vùng có khối lượng giao dịch cao thường là đặc tính của đỉnh thị trường khi có sự đồng thuận mạnh về giá sẽ tăng cao hơn. Vùng có khối lượng giao dịch cao cũng rất thường xảy ra ở những nơi bắt đầu của một xu hướng mới (khi đường giá phá vỡ khoảng giá nào đó). Cũng như trước khi thị trường xác lập đáy thì khối lượng giao dịch thường tăng mạnh vì khuynh hướng hoảng sợ dẫn đến hành động bán tháo.
Khối lượng giao dịch có thể trợ giúp chúng ta đo lường sức mạnh của xu hướng giá hiện tại. Xu hướng tăng mạnh thường có hiện tượng khối lượng giao dịch lớn trong giai đoạn tăng lên của xu hướng thị trường và khối lượng giao dịch thấp ở giai đoạn giảm (điều chỉnh). Giống như thế, xu hướng giảm mạnh có hiện tượng khối lượng giao dịch lớn trong giai đoạn giảm của một xu hướng và khối lượng giao dịch thấp trong giai đoạn tăng (điều chỉnh).
VI. Equivolume
• Equivolume là kiểu hiển thị giá làm nổi bật mối quan hệ giữa giá và khối lượng giao dịch. Equivolume được Richard W. Arms, Jr. sáng chế và được giải thích khá chi tiết trong cuốn sách “Volume Cycle In Stock Market”
• Để thay thế cho màn hình khối lượng giao dịch thường nằm phía dưới của đồ thị giá. Equivolume là sự kết hợp giữa giá và khối lượng giao dịch bằng kích thước 2 chiều của hình hộp. Đỉnh hộp là giá cao nhất, đáy hộp là giá thấp nhất. Độ rộng của cái hộp là nét đặc biệt duy nhất của Equivolume – nó biểu trưng cho khối lượng giao dịch trong phiên giao dịch.
Hình dạng của mỗi cái hộp Equivolume cung cấp trực quan bằng hình ảnh của cung và cầu cho mã chứng khoán xảy ra ở phiên giao dịch đặc biệt. Một cái hộp ngắn và rộng (khối lượng giao dịch của mã chứng khoán mạnh và sự thay đổi giá nhỏ) khuynh hướng sẽ xảy ra điểm ngoặt. Trong khi cái hộp cao và hẹp (khối lượng giao dịch của mã chứng khoán yếu và sự thay đổi giá lớn) rất có thể xảy ra củng cố hay thiết lập xu hướng.
Đặc biệt quan trọng là sử dụng cái hộp đó để nhận biết sự xuyên thủng vùng hỗ trợ hoặc kháng cự. Từ đó khối lượng giao dịch xác nhận sự khả thi của sự xuyên thủng này.
Một “Power box” là cái hộp có cả độ cao và độ rộng thực chất tăng. “Power box” là một tín hiệu xác nhận rất tốt khi xảy ra hiện tượng “breakout”. Hộp hẹp do khối lượng giao dịch yếu gây ra vẻ nghi ngại tính hiệu dụng của “breakout”.
Chúng ta thường nhìn vào khối lượng giao dịch trong mối quan hệ với sự vận động giá:
• Điểm đảo chiều xu hướng
+ Trên – mức trung bình khối lượng giao dịch cùng với sự biến động giá nhỏ.
+ Trên – mức trung bình khối lượng giao dịch sau khi ôm sát sự gia tăng hoặc sự suy giảm.
• Tiếp tục xu hướng
+ Trên – mức trung bình khối lượng giao dịch với sự biến động giá mạnh.
+ Trên – mức trung bình khối lượng giao dịch với sự breakout.
+ Dưới – mức trung bình với không có sự biến động giá.
VII. Đường trung bình giá (MA)
Moving Average (MA) là một chỉ báo biểu thị giá trị trung bình của giá chứng khoán trong một khoảng thời gian nhất định. Khi tính toán MA, phân tích toán học của giá trị trung bình trên một số phiên giao dịch được xác định trước. Khi giá cổ phiếu thay đổi, thì dẫn đến giá trị trung bình đó sẽ dịch chuyển tăng hoặc giảm.
SMA = (P1 + P2 + … + Pn)/n
• P: giá bắt đầu tính trung bình
• n: số ngày tính trong MA
Có 5 thể loại phổ biến của MA: Simple, Exponential, Triangular, Veriable và Weighted. MA có thể được tính toán trong dãy số liệu chứa trong một cổ phần như: giá mở cửa, cao nhất, thấp nhất, đóng cửa, khối lượng giao dịch hoặc chỉ báo kỹ thuật khác.
Phổ biến nhất là người ta sử dụng SMA với số kỳ là 10, 20, và 50 ngày của giá đóng cửa.
VIII. Chỉ báo lực (Force Index)
Chỉ bào lực (FI) là một chỉ báo kỹ thuật về dao động và được Alexander Elder sáng tạo ra, được giới thiệu trong cuốn sách “Trading for a Living”.
FI là sự kết hợp 3 bộ phận lớn của thông tin thị trường:
• Hướng đi của sự thay đổi đường giá (khác hướng di chuyển của đường giá)
• Phạm vi
• Khối lượng mua bán
Đây là cách mới để đưa khối lượng giao dịch tiến tới những phán quyết trong kinh doanh:
FI = Vol(hôm nay) x [ giá đóng cửa (hôm nay) – giá đóng cửa (hôm qua)]
Mặc dù FI cũng có thể được sử dụng thô nhưng chúng thường được làm mềm hay mượt hơn (smooth) bằng đường trung bình của chúng trong các kỳ 3 ngày và 13 ngày.
MA(3) của FI là một chỉ báo kỹ thuật rất nhạy, biểu thị cho chiến thuật ngắn hạn giữa thị trường tăng (bulls) và giảm (bears). MA(13) của FI được nhận dạng là chiến thuật dài hạn hơn giữa thị trường tăng và giảm.
IX. Hướng di chuyển đường giá (DMI)
Directional Moving Index (DMI) là loại chỉ báo kỹ thuật hàm ý xu hướng tiếp theo (trend-following) được ông J. Welles Wilder, Jr. sáng lập, nó được thiết kế để đo lường chứng khoán đó có xu hướng hay không có xu hướng thị trường. Theo thống kê trong thị trường có khoảng 30% thời gian là xảy ra có xu hướng mạnh và có khoảng 70% thời gian là thị trường lình xình (sideways). Đây là chỉ báo kỹ thuật được sử dụng để nhận biết những phiên khi thị trường biểu thị xu hướng rõ ràng hoặc trạng thái có đường hướng.
Công thức tính toán của DMI khá phức tạp vì nó bao gồm 3 đường:
• +DI: Chỉ báo hướng tích cực hiện hành, là phần chia cao bởi khoảng giá trên ngày áp chót và giá đóng cửa ngày hôm trước, được làm mềm bằng chia cho số phiên giao dịch
• -DI: Chỉ báo hướng tiêu cực hiện hành, là phần chia thấp bởi khoảng giá trên ngày áp chót và giá đóng cửa ngày hôm trước, được làm mềm bằng chia cho số phiên giao dịch
• ADX: Trung bình thay đổi của sự khác biệt giữa +DI và –DI chia cho tổng +DI và –DI nhân 100