Sóng Elliot

mrhungvv

New Member
minh dang tai file cho Kity day

sóng Elliott
Nguyên lý sóng Elliott được Ralph Nelson Elliott khám phá vào những năm 1920 và về sau được phổ biến và phát triển thêm với sự nghiên cứu đầy khoa học của Frost và Prechter vào thập niên 1980. Nhìn chung kể từ nguyên lý sóng Elliott ra đời thì nó đã thực phân tích, xác nhận, tinh lọc và cải tiến một cách có hệ thống và thống kê. Những điểm mạnh được thừa nhận, những điểm yếu được nhận diện và được điều chỉnh. Kết quả đạt được là một công cụ dự báo thị trường chính xác và hiệu quả hơn chưa từng thấy. Đó chính là Nguyên lý sóng Elliott tinh tuyển. Góp phần cho quá trình nghiên cứu đó chỉnh là nhờ lòng nhiệt huyết của Richard Swannel và nhóm nghiên cứu của ông.
• Kể từ sau khi Elliott khám phá rằng những mô hình trong những đồ thị giá của các thị trường có tính thanh khoản là kết quả của cảm xúc đám đông con người, thay đổi từ hy vọng đến sợ hãi và ngược lại thì Nguyên lý sóng Elliott trở thành đề tài gây tranh cãi liên miên. Người ta nói rằng nếu bạn có thể sắp xếp 10 nhà phân tích kỹ thuật sóng Elliott trong một căn phòng để thảo luận dự báo sóng Elliott cho một đồ thị riêng biệt thì bạn sẽ có ít nhất 12 ý kiến. Những chuyên gia về sóng Elliott thường bất đồng ý kiến với nhau bởi vì họ thường có những quan điểm khác nhau về cách hiểu Nguyên lý sóng Elliott. Và trong những mô hình sóng Elliott thì có dạng cổ điển và dạng hiện đại vì thế đôi khi sẽ gây khá nhiều tranh cãi.
Tâm lý thị trường theo các bước sóng Elliott

Sóng chủ số 1
Đợt sóng đầu tiên này có điểm xuất phát từ thị truờng đầu tư giá xuống (suy thóai), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ đầu. Lúc này thông tin cơ bản vẫn đang là thông tin tiêu cực. Chiều hướng của thị trường trước khi sóng 1 xảy ra chủ yếu vẫn là thị truờng suy thoái. Khối lương giao dịch có tăng chút ít theo chiều hướng giá tăng. Tuy vậy việc tăng này là không đáng kể. Do đó nhiều nhà phân tích kỹ thuật không nhận ra sự có mặt của đợt sóng số 1 này.
Sóng chủ số 2
Sóng chủ 2 sẽ điều chỉnh sóng 1, nhưng điểm thấp nhất của sóng 2 không bao giờ vượt qua điểm xuất phát đầu tiên của sóng 1. Tin tức dành cho thị trường vẫn chưa khả quan. Thị trường đi xuống ở cuối sóng 2 để thực hiện việc “kiểm tra” độ thấp của thị trường. Những người theo xu thế đầu tư giá xuống vẫn đang tin rằng thị trường theo xu hướng đầu tư giá xuống vẫn đang ngự trị. Khối lượng giao dịch sẽ ít hơn đợt sóng 1. Giá sẽ được điều chỉnh giảm và thuờng nằm trong khoảng 0.382 đến 0.618 của mức cao nhất của sóng 1.
Sóng chủ số 3
Thông thường đây là sóng lớn nhất và mạnh mẽ nhất của xu hướng lên giá. Ngay đầu sóng 3, thị trường vẫn còn nhận những thông tin tiêu cực vì vậy có nhiều nhà kinh doanh không kịp chuẩn bị để mua vào. Khi sóng 3 đang ở lưng chừng, thị trường bắt đầu nhận những thông tin cơ bản tích cực. Mặc dù có những đợt điều chỉnh nho nhỏ trong lòng của sóng 3, giá của sóng 3 tăng lên với tốc độ khá nhanh. Điểm cao nhất của sóng 3 thường cao hơn điểm cao nhất của sóng 1 với tỷ lệ 1.618 hoặc thậm chí là 261.8%.
Sóng chủ số 4
Đây thật sự là một con sóng điều chỉnh. Giá có khuynh hướng đi xuống và đôi khi có thể tạo kiểu răng cưa kéo dài. Sóng 4 thường sẽ điều chỉnh sóng 3 với mức 0.382 – 0.618 của sóng 3. Khối lượng giao dịch của sóng 4 thấp hơn khối lượng giao dịch của sóng 3. Đây là thời điểm để mua vào nếu như nhà kinh doanh nhận biết được tiềm năng tiếp diễn liền sau đó của con sóng 5. Tuy vậy việc nhận biết điểm dừng của sóng 4 là một trong những khó khăn của các nhà phân tích kỹ thuật trường phái sóng Elliott.
Sóng chủ số 5
Đây là đợt sóng cuối cùng của 5 con sóng “chủ”. Thông tin tích cực tràn lan khắp thị trường và ai cũng tin rằng thị trường đang ở trong thế đầu tư giá lên. Khối lượng giao dịch của sóng 5 khá lớn, tuy vậy thông thường vẫn nhỏ hơn sóng 3. Điều đáng nói là những nhà kinh doanh “không chuyên nghiệp” thường mua vào ở những điểm gần cuối sóng 5. Vào cuối con sóng 5, thị trường nhanh chóng chuyển hướng. Điểm cao nhất của sóng 5 cao hơn điểm cao nhất của sóng 3 với tỷ lệ 161.8%.
Sóng A
Sóng này bắt đầu cho đợt sóng điều chỉnh A – B - C. Trong thời gian diễn ra sóng A, thông tin cơ bản vẫn đang rất lạc quan. Mặc dù giá xuống, nhưng phần đông các nhà kinh doanh vẫn cho rằng thị trường đang trong thế đầu tư giá lên. Khối lượng giao dịch tăng trưởng khá đều đặn theo con sóng A. Sóng A thường hoàn lại từ 38.2% đến 61.8% so với sóng 5.
Sóng B
Giá tăng trở lại và với mức cao hơn so với điểm cuối sóng A. Sóng B được xem là điểm kéo dài của thị trường đầu tư giá lên. Đối với những người theo trường phái phân tích kỹ thuật cổ điển, điểm B chính là vai phải của mô hình đồ thị Đầu và Vai. Khối lượng giao dịch của sóng B thường thấp hơn sóng A. Vào lúc này, những thông tin cơ bản không có những điểm tích cực mới, thế nhưng cũng chưa chuyển hẳn qua tiêu cực. Sóng B thường hoàn lại từ 38.2% đến 61.8% so với sóng A.
Sóng C
Giá có khuynh hương giảm nhanh hơn các đợt sóng trước. Khối luợng giao dịch tăng. Hầu như tất cả mọi nhà kinh doanh, đầu tư đều nhận thấy rõ sự ngự trị của xu thế đầu tư giá xuống trên thị trường, chậm nhất là trong đợt sóng nhỏ thứ 3 của sóng C. Sóng C thường lớn như sóng A. Điểm thấp nhất của sóng C ít nhất bằng điểm thấp nhất của sóng A nhân với 1.618.
Phương pháp vẽ kênh giá
vận dụng trong lý thuyết sóng Elliot

I. Giới thiệu khái quát:
Vẽ kênh giá là phương pháp quan trọng không chỉ quyết định vị trí các sóng nội bộ mà còn dự đoán được các mục tiêu cho sóng kế tiếp.
Kênh giá là những đường xu hướng song song, ít nhiều cũng chứa toàn bộ dao động giá của một sóng. Dù các đường xu hướng của mô hình Triangle không song song nhưng chúng cũng được coi là kênh giá.
Dưới đây là minh họa kênh giá của mô hình sóng chủ và mô hình sóng điều chỉnh.

Các sóng thuộc cùng cấp độ sóng có thể được nhận diện bằng cách vẽ các kênh giá. Đặc biệt trong trường hợp các cấu trúc sóng chủ, sóng Zigzag và mô hình tam giác. Nếu những sóng này không tương xứng nhau thì nên tìm kiếm cách tính sóng tùy chọn khác.
II. Cách vẽ kênh giá và dự đoán mục tiêu sử dụng kênh giá:
1. Mục tiêu sóng 3 hoặc sóng C:
Vẽ một kênh giá ngay sau khi sóng 1 và sóng 2 hoàn thành. Nối điểm khởi đầu của sóng 1 (được đánh dấu là 0) với điểm cuối của sóng 2, sau đó vẽ một đường song song kéo từ đỉnh sóng 1.
Đường song song này có vai trò là mục tiêu tối thiểu của sóng 3 đang phát triển. Nếu sóng 3 không thể bức phá qua đường song song này hoặc không thể chạm đến nó thì có thể đó là sóng C chứ không phải là sóng 3.










Đường hỗ trợ từ 0 đến sóng 2 có vai trò là mức chặn. Khi đường này bị phá vỡ thì rất có khả năng sóng 2 hoặc B di chuyển phức tạp hơn vì thế sóng 3 hoặc C chưa bắt đầu hình thành.
Chú ý rằng sóng 3 thường là sóng mạnh nhất và sẽ vượt qua đường xu hướng trên.
2. Mục tiêu sóng 4:
Ngay sau khi sóng 3 hoàn thành thì có thể vẽ một kênh giá bằng cách nối điểm cuối của sóng 1 với điểm cuối của sóng 3 bằng một đường xu hướng rồi vẽ một đường song song từ điểm cuối của sóng 2. Bằng cách này có thể dự đoán mục tiêu sóng 4. Chú ý rằng thông thường đường nằm dưới từ sóng 2 sẽ bị phá vỡ một chút do hành động giá của sóng 4. Đường hỗ trợ này có vai trò là mục tiêu tối thiểu của sóng 4.
Đường hỗ trợ từ 0 đến sóng 2 có vai trò là mức chặn. Khi đường này bị phá vỡ thì rất có khả năng sóng 2 hoặc B di chuyển phức tạp hơn vì thế sóng 3 hoặc C chưa bắt đầu hình thành.Chú ý rằng sóng 3 thường là sóng mạnh nhất và sẽ vượt qua đường xu hướng trên.











Nếu sóng 4 không đến gần được đường này thì đây là biểu hiện của một xu hướng rất mạnh. Có thể xu hướng giá vẫn đang ở sóng 3 hoặc sẵn sàng cho sự bức phá mạnh ở sóng 5.
3. Mục tiêu sóng 5:
(1) Phương pháp 1:
Ngay sau khi sóng 4 hoàn thành thì có thể vẽ một kênh giá nối điểm cuối của sóng 2 với điểm cuối của sóng 4 bằng một đường xu hướng sau đó vẽ đường song song từ điểm cuối của sóng 3. Bằng cách này có thể dự đoán mục tiêu sóng 5.

Thông thường sóng 5 sẽ không chạm đến đường xu hướng nằm trên, trừ khi song 5 theo mô hình mở rộng Extension5 hoặc khi sóng 3 tương đối yếu. Trong mô hình Extension5 với biểu hiện khối lượng giao dịch cao và các chỉ báo xung lượng mạnh mẽ thì hiện tượng vượt quá (throwover) có thể xuất hiện.
(2) Phương pháp 2:
Thường thì sóng 3 là sóng mạnh nhất cho thấy tốc độ di chuyển rất nhanh khi so sánh với sóng 1 và sóng 5. Nếu sóng 3 cho thấy một đợt tăng giá hoặc giảm giá gần như thẳng đứng thì vẽ một đường xu hướng nối sóng 2 với sóng 4 rồi vẽ đường song song từ sóng 1.











Đường song song này sẽ cắt qua sóng 3 và sẽ tạo mục tiêu cho sóng 5. Kinh nghiệm cho thấy đây là kênh giá rất có giá trị.
4. Mục tiêu sóng D và E:
Ngay sau khi sóng B hoàn thành thì có thể vẽ một đường xu hướng nối điểm khởi đầu sóng A với điểm cuối sóng B để định mục tiêu cho sóng D khi mô hình Triangle đang phát triển. Điều này chắc chắn hơn sau khi sóng C hoàn thành.













Ngay sau khi sóng C hoàn thành thì có thể vẽ đường xu hướng nối sóng A với điểm cuối sóng C để định mục tiêu sóng E. Hầu như không bao giờ sóng E dừng ngay tại đường xu hướng mà chỉ ghé sát đường xu hướng một cách nhanh chóng và tạm thời.
4. Mục tiêu trong mô hình Double Zigzag:
Việc vẽ một kênh giá là điều rất quan trọng để phân biệt các mô hình Double Zigzag với các mô hình sóng Impulse trong khi việc phân biệt chúng vốn khó khăn do chúng đều có đặc trưng sóng chủ. Các mô hình Double Zigzag có xu hướng chạm kênh giá gần như hoàn hảo trong khi ở mô hình Impulse thì sóng 3 thường phá vỡ ra khỏi kênh giá.










">I. Giới thiệu khái quát:
Vẽ kênh giá là phương pháp quan trọng không chỉ quyết định vị trí các sóng nội bộ mà còn dự đoán được các mục tiêu cho sóng kế tiếp.
Kênh giá là những đường xu hướng song song, ít nhiều cũng chứa toàn bộ dao động giá của một sóng. Dù các đường xu hướng của mô hình Triangle không song song nhưng chúng cũng được coi là kênh giá.
Dưới đây là minh họa kênh giá của mô hình sóng chủ và mô hình sóng điều chỉnh.


Các sóng thuộc cùng cấp độ sóng có thể được nhận diện bằng cách vẽ các kênh giá. Đặc biệt trong trường hợp các cấu trúc sóng chủ, sóng Zigzag và mô hình tam giác. Nếu những sóng này không tương xứng nhau thì nên tìm kiếm cách tính sóng tùy chọn khác.
II. Cách vẽ kênh giá và dự đoán mục tiêu sử dụng kênh giá:
1. Mục tiêu sóng 3 hoặc sóng C:
Vẽ một kênh giá ngay sau khi sóng 1 và sóng 2 hoàn thành. Nối điểm khởi đầu của sóng 1 (được đánh dấu là 0) với điểm cuối của sóng 2, sau đó vẽ một đường song song kéo từ đỉnh sóng 1.
Đường song song này có vai trò là mục tiêu tối thiểu của sóng 3 đang phát triển. Nếu sóng 3 không thể bức phá qua đường song song này hoặc không thể chạm đến nó thì có thể đó là sóng C chứ không phải là sóng 3.






Đường hỗ trợ từ 0 đến sóng 2 có vai trò là mức chặn. Khi đường này bị phá vỡ thì rất có khả năng sóng 2 hoặc B di chuyển phức tạp hơn vì thế sóng 3 hoặc C chưa bắt đầu hình thành.
Chú ý rằng sóng 3 thường là sóng mạnh nhất và sẽ vượt qua đường xu hướng trên.
2. Mục tiêu sóng 4:
Ngay sau khi sóng 3 hoàn thành thì có thể vẽ một kênh giá bằng cách nối điểm cuối của sóng 1 với điểm cuối của sóng 3 bằng một đường xu hướng rồi vẽ một đường song song từ điểm cuối của sóng 2. Bằng cách này có thể dự đoán mục tiêu sóng 4. Chú ý rằng thông thường đường nằm dưới từ sóng 2 sẽ bị phá vỡ một chút do hành động giá của sóng 4. Đường hỗ trợ này có vai trò là mục tiêu tối thiểu của sóng 4.

Nếu sóng 4 không đến gần được đường này thì đây là biểu hiện của một xu hướng rất mạnh. Có thể xu hướng giá vẫn đang ở sóng 3 hoặc sẵn sàng cho sự bức phá mạnh ở sóng 5.
3. Mục tiêu sóng 5:
(1) Phương pháp 1:
Ngay sau khi sóng 4 hoàn thành thì có thể vẽ một kênh giá nối điểm cuối của sóng 2 với điểm cuối của sóng 4 bằng một đường xu hướng sau đó vẽ đường song song từ điểm cuối của sóng 3. Bằng cách này có thể dự đoán mục tiêu sóng 5.


Thông thường sóng 5 sẽ không chạm đến đường xu hướng nằm trên, trừ khi song 5 theo mô hình mở rộng Extension5 hoặc khi sóng 3 tương đối yếu. Trong mô hình Extension5 với biểu hiện khối lượng giao dịch cao và các chỉ báo xung lượng mạnh mẽ thì hiện tượng vượt quá (throwover) có thể xuất hiện.
(2) Phương pháp 2:
Thường thì sóng 3 là sóng mạnh nhất cho thấy tốc độ di chuyển rất nhanh khi so sánh với sóng 1 và sóng 5. Nếu sóng 3 cho thấy một đợt tăng giá hoặc giảm giá gần như thẳng đứng thì vẽ một đường xu hướng nối sóng 2 với sóng 4 rồi vẽ đường song song từ sóng 1.

Đường song song này sẽ cắt qua sóng 3 và sẽ tạo mục tiêu cho sóng 5. Kinh nghiệm cho thấy đây là kênh giá rất có giá trị.
4. Mục tiêu sóng D và E:
Ngay sau khi sóng B hoàn thành thì có thể vẽ một đường xu hướng nối điểm khởi đầu sóng A với điểm cuối sóng B để định mục tiêu cho sóng D khi mô hình Triangle đang phát triển. Điều này chắc chắn hơn sau khi sóng C hoàn thành.














Ngay sau khi sóng C hoàn thành thì có thể vẽ đường xu hướng nối sóng A với điểm cuối sóng C để định mục tiêu sóng E. Hầu như không bao giờ sóng E dừng ngay tại đường xu hướng mà chỉ ghé sát đường xu hướng một cách nhanh chóng và tạm thời.
4. Mục tiêu trong mô hình Double Zigzag:
Việc vẽ một kênh giá là điều rất quan trọng để phân biệt các mô hình Double Zigzag với các mô hình sóng Impulse trong khi việc phân biệt chúng vốn khó khăn do chúng đều có đặc trưng sóng chủ. Các mô hình Double Zigzag có xu hướng chạm kênh giá gần như hoàn hảo trong khi ở mô hình Impulse thì sóng 3 thường phá vỡ ra khỏi kênh giá.

Hôm nay ngồi đọc 1 mớ lý thuyết về sóng Elliott và dựa trên mớ lý thuyết đó tôi đi tìm cái chart để thực hành. Tôi xin giải thích tại sao tôi lại đếm sóng như vậy ( thật ra chỉ mới quan tâm nhiều đến sóng chủ 1-2-3-4-5, chưa đọc đến những sóng điều chỉnh a-b-c sau khi đã hoàn chỉnh sóng chủ).
- Sóng (2) không thoái lui >100% so với sóng (1), mức thoái lui của chart đính kèm là 50%==> nếu thoái lui >100% thì xem như phạm vào luật của lý thuyết sóng Elliott=> xem lại cách đếm sóng.
- Sóng (2) mẫu hình tam giác nhìn phức tạp hơn sóng (4)==> lý thuyết nói rằng nếu (2) phức tạp thì (4) sẽ đơn giản và ngược lại.
- Sóng (3) gồm có 5 sóng nhỏ bên trong được đánh số từ 1 đến 5 (màu đỏ) ==> gọi là sóng (3) mở rộng ==> lý thuyết nói rằng " việc mở rộng này có thể xảy ra ở sóng (1) hoặc (3) hoặc (5) nghĩa là nếu đã xảy ra ở sóng (3) thì sẽ k xảy ở sóng (1) và (5)".
- Sóng (3) dài nhất ==> lý thuyết nói rằng " sóng (3) không phải là sóng ngắn nhất so với sóng (1) và (5):
- Sóng (3) = 1.618 sóng (1)
- Sóng (3) gần bằng 1.618 sóng (5)
- Sóng (4) không thoái lui >100% so với sóng (3).
Tui thực tập trên chart M15, mô hình 5 sóng chủ mất khoảng 12 tiếng (đạt 25 giá) để hình thành. Dựa vào lý thuyết sóng Elliott để đặt stop loss nếu như việc đếm sóng bị sai ( VD: sóng (2) k bao giờ thoái lui >100% so với sóng (1)==> đặt sl dưới điểm bắt đầu của sóng (1) ).
Mẫu hình tam giác
Chắc là bạn đã đoán ra trước khi bạn click vào đây rồi. Mẫu tam giác giảm chính xác là đảo ngược của mẫu tam giác tăng. Trong mẫu tam giác giảm, một chuỗi các đỉnh giảm dần tạo thành 1 đường dốc giảm. Đường dốc giảm dần này là một ngưỡng hỗ trợ mà giá vàng dường như khó phá vỡ.
Mẫu hình tam giác giảm

Trong biểu đồ trên đây, bạn có thể thấy giá vàng gần như chỉ chạm vào mức biên trên mà khó vượt qua, điều đó nói với chúng ta rằng người bán đang bắt đầu chống lại người mua ở các vị trí này. Và trong hầu hết trường hợp, giá vàng cứ dao động qua lại 2 đường đó và thậm chí sẽ phá vỡ ngưỡng hỗ trợ rồi tiếp tục rơi xuống.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngưỡng hỗ trợ quá mạnh và giá và sẽ đập lại đó và tạo nên một xu hướng lên cực mạnh.
Có một tin tốt lành là chúng ta không cần quan tâm đến việc giá vàng sẽ đi theo hướng nào. Chúng ta chỉ biết rằng nó đi theo một hướng nào đó. Trong trường hợp này, chúng ta đặt lệnh nhảy vào thị trường ở trên đường dốc xuống và ở dưới đường hỗ trợ.


Và trong ví dụ ở hình trên đây, giá vàng đã kết thúc xu hướng lên bằng cách phá vỡ đường hỗ trợ và tiếp tục rơi xuống thậm chí là rất nhanh.
Ghi chú : Thị trường dự định rơi nhanh hơn khi nó lên đồng nghĩa với việc bạn thường kiếm được nhiều tiền hơn khi bạn đánh xuống.

TAM GIÁC TĂNG

Dạng hình này xảy ra khi có một ngưỡng cản và một đường dốc dưới lên. Điều xảy ra trong suốt quá trình này là có một mức cản mạnh mà những người mua dường như không thể xuyên thủng được. Tuy nhiên, họ vẫn đang cố gắng từng bước từng bước đẩy giá lên và càng dần càng khiến cho đường dốc tiến sát lại ngưỡng cản.


Ở biểu đồ trên đây, bạn có thể nhìn thấy người mua bắt đầu đạt được sức mạnh bởi vì họ đang tạo ra đường dốc lên. Họ giữ được lực đẩy lên ngưỡng cản và kết quả là đã có 1 điểm phá vỡ xảy ra. Bây giờ, câu hỏi là “Nó sẽ đi tiếp theo hướng nào?” – Liệu người mua có thể phá vỡ được ngưỡng cản hay không? Hay là ngưỡng cản này quá mạnh?
Nhiều sách dạy biểu đồ nói với bạn rằng trong hầu hết trường hợp, người mua sẽ chiến thắng trong cuộc chiến này và giá vàng sẽ phá vỡ ngưỡng cản. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của tôi thì điều đó không luôn luôn đúng. Thỉnh thoảng ngưỡng cản quá mạnh, và người mua không thể phá vỡ được ngưỡng này một cách đơn giản được.
Thật ra thì trong hầu hết trường hợp, giá vàng sẽ đi lên. Điểm mà chúng tôi muốn chỉ ra đây là chúng ta thường thiếu thận trọng về hướng đi của giá và mà chúng ta chỉ muốn sẵn sàng chờ cho nó bật mạnh để chúng ta nhảy vào.

Trong tình huống này, người mua đã thắng trong cuộc chiến và giá vàng bắn lên như tên lửa scud vậy.

TAM GIÁC CÂN

Tam giác cân là hình mẫu biểu đồ khi mà góc của đường xu hướng lên và đường xu hướng xuống hội tụ với nhau trông như một tam giác cân. Điều sẽ xảy ra trong suốt hình dạng này là thị trường đang liên tục đi thì thấp lên cao và lại đi từ cao xuống thấp. Điều này có nghĩa là không có người mua lẫn người bán có thể tạo ra được đột phá để đẩy giá vàng tạo ra một xu hướng cụ thể. Nếu đây là một cuộc chiến giữa người mua và người bán thì cuộc chiến này bất phân thắng bại.
Dạng hành động này được gọi là sự hợp nhất.

Trong biểu đồ trên đây, chúng ta có thể thấy không có người mua hay người bán có thể đẩy được giá theo hướng của họ. Khi điều này xảy ra chúng ta có dao động từ cao xuống thấp rồi từ thấp lại lên cao. Và khi 2 đường dốc tiến sát lại gần nhau, có nghĩa là sắp sửa có một điểm phá vỡ xảy ra. Chúng ta không thể biết hướng phá vỡ sẽ là như thế nào, nhưng chúng ta biết rằng thị trường sẽ phá vỡ.
Vậy thì làm sao chúng ta có thể tận dụng được điều này?? Đơn giản thôi. Chúng chỉ cần đặt các lệnh ngay trên các đường dốc trên xuống và đường dốc dưới lên là được.
Khi mà chúng ta biết được giá vàng sẽ chuẩn bị phá vỡ, chúng ta có thể chỉ cần để tâm xem đến hướng mà nó phá vỡ rồi chúng ta cứ chơi theo hướng đó.

Trong ví dụ này, nếu chúng ta đặt các lệnh ở trên đường dốc dưới thì có lẽ chúng ta cứ việc cưỡi theo con sóng khi nó bật lên trên. Nếu bạn đặt lệnh vào các lệnh ở dưới đường dốc lên thì bạn sẽ phải hủy nó càng sớm càng tốt trước khi lệnh đầu tiên được khớp.
 

gacon_lonton

<img src ="http://gold24k.info/diendan/images/vip-
hay quá cám ơn hùng nhé
giờ thì mình đã hiểu sóng elli như thế nào
hi vọng sau lần này mình có cách chơi hoàn thiện hơn
KEKE
 
Top