Thread này tôi đăng tải những bài viết đã chọn lọc của bác Vietcurrency!
-Bản chất của Forex là gì ?
-Forex là một thị trường cũng như bao thị trường tài chánh khác mà thôi. Tuy nhiên, bản chất của nó không phải là đầu tư, mà là hedge. Có nghĩa là người ta sinh ra nó để nó giúp các đại công ty, các ngân hàng bảo vệ tài sản, sản phẩm của họ qua hình thức tài chính. Thị trường nào cũng có hai loại người chính, hedgers hay có thể là investors, và speculators. Hedgers là người tạo nên lực nhu cầu của thị trường. Còn speculators thì tạo nên liquidity cho thị trường. .
-Forex họat động 24/24 ,vậy tai sao mỗi ngày lại có giờ mở cửa của các thị trường.
-Giờ mở cửa các thị trường là giờ bản xứ. Còn forex market thì lúc nào cũng mở cửa. Thị trường bản xứ, chẳng hạn như thị trường Hoa Kỳ, có thể đóng. Nhưng currency market vẫn có thể trade tại một thị trường khác, ở một giá gần như là tương tự giá của thị trường vừa đóng.
-Có phải lúc đó các Big trader bắt đầu họat động ?
Không. Traders không hoạt động theo giờ. Họ họat động theo news và theo tầm quan trọng của những sự việc đang xảy ra vòng quanh thế giới đã và đang ảnh hưởng vào giá thị trường.
Các US Trader giữ vai trò như thế nào đ/v Currency market ? Giờ họat động của họ ?
Traders là một bộ phận chung của thị trường, chứ không phải đứng ngoài thị trường. Họ không có nhiệm vụ gì hết. Họ vào cuộc chơi với một ý nghĩ duy nhất. Đó là kiếm tiền, và kiếm cho thật nhiều tiền. Đơn giản vậy thôi. Tuy nhiên, với một túi tiền lớn gấp trăm ngàn lần số tiền của các chú retail, professional traders cung cấp cho thị trường một điều quan trọng nhất của tất cả market. Đó là liquidity.
-Những yếu tố nào cần có để trở thành successful trader?
Discipline ( Kỷ luật). Một đoàn quân thiện chiến không phải nhờ người lính giỏi, mà nhờ người lính kỷ luật. Trong các quân binh chủng của thế giới, ai cũng biết Nhảy Dù là thiện chiến nhất. Họ thiện chiến vì họ là binh chủng kỷ luật nhất của quân đội. Traders cũng thế. Thương trường hôm nay cũng giống chiến trường năm xưa. Ra trận mà thiểu kỷ luật bản thân. Trade lung tung. Trade theo hứng, trade vì tham. Trade vì tự cao, tự ái thì cái chết trong thương trường sẽ không xa lắm.
-Các giai đọan mà Protrader thường trải qua?
Đau thương và nhiều đau thương. Nhiều đến nổi mỗi lời nói khi chia sẽ kinh nghiệm với người khác là một bài học trong quá khứ. Nhìn vào chart, thấy formation hiện ra trước mặt, hiểu nó. Nhưng song song với cái hiểu đó là bài học đau thương của dĩ vảng. Không nhớ cũng không đươc.
-Nên phối hợp giữa TA và FA như thế nào? Cái nào giữ vai trò chủ đạo?
-TA là cho trade thuần túy. Đó là một nghệ thuật mua bán qua phương cách đo lực cung cầu thị trường. FA là một môn học chính thống, được đào tạo bởi những đại học danh tiếng, và có bằng cấp hẳn hòi.
Cái nào giữ vai trò chủ đạo? Bạn tự định nghĩa mình là gì? Trader hay investor. Nếu là traders thì chỉ nên tìm hiểu FA một mức cần thiết nào đó thôi. Biết đủ để hiểu các tin tức và phản ứng của thị trường là đủ.
-Đối với TA nên sử dụng những công cụ nào?
-Mỗi công cụ có một cách xài khác nhau. Có nhược điểm và ưu điểm khác nhau. Không thể nói cái nào hơn cái nào, tuy rằng có một số công cụ thường được người ta xài nhiều hơn những cái khác. Nhưng đó không có nghĩa là công cụ đó là tuyệt đối.
-Cách xác định Entry/Exit point?
-Muốn biết xài entry hay exit cho đúng thì phải biết coi formation. Nắm formation cho chính xác mới nói đến entry và exit. Entry và exit là một nghệ thuật tối quan trọng trong trading. Nó phân biệt giữa một người biết trade và một tay nhà nghề. Vì kỷ thuật entry/exit này sẽ làm tiền lời tăng hay giảm gần 50% nhiều hơn, nếu biết chọn đúng hai điểm trên.
-Cách đặt Stop loss/Target?
Tùy cá nhân và tùy market nữa. Không thể nói suông được. Có người thì chọn đại vài chục pips và chấp nhận thua ở điểm đó. Có người thì theo dỏi market và quyết định cut loss khi họ không thấy hy vọng nữa. Có người vừa nhảy vô, thấy không êm là chạy liền không do dự. Tôi thuộc thành phần chót. Thấy không êm là dông mất. Trade kiểu này nhiều khi cũng bực mình vì mình bị market nó rỉa hoài, nhưng theo tôi thì kiểu này nó bảo vệ vốn lâu dài. Và câu hỏi "thế nào là không êm", xin trả lời là trước khi nhảy vô thì mình phải có cái nhìn xa hơn hiện tại chút. Nếu mình daytrade mà vừa nhảy vào, sau 5, 10 phút mà thấy không ổn là chuẩn bị lui quân là vừa. Ngồi đó tiếc của Trời một hồi là buồn lắm . Ngồi càng lâu thì "nổi buồn càng dâng cao"
-Nên phối hợp giữa các Timeframe như thế nào?
-Mỗi cặp tiền nó có một bản chất riêng. Không thể xài một time frame để đo hết các cặp. Chẳng hạn đồng Euro thường rất dể đọc chart với 5-minute chart. Nhưng nếu đem cái timeframe đó qua đồng Pound thì sẽ sai signal. Lý do là đồng Pound giao động nhiều hơn đồng Euro, cho nên nó cần một longer timeframe để weed out những market noise.
-Money management :
Mỗi một position nên đặt bao nhiêu % vốn?
Để có thể kiếm sống được với Forex thì cần số vốn tối thiểu là bao nhiêu ?
-Mỗi Cái này thì tùy cá nhân. Có một position nên đặt bao nhiêu % vốn? người 5, 10%. Có người thì chơi xã láng luôn. Có người thì bỏ vào ít lúc đầu, nhưng thấy market bắt đầu chạy theo ý mình muốn thì họ “double down” luôn. Nói chung là cái này tùy theo bản tánh của người, và thị trường mình trade. Cá nhân tôi thì lúc đầu bỏ ít. Nhưng khi market đã confirm hướng đi thì tấp vào tối đa. George Soros—thần tượng của currency trader—đã từng nói một câu rất nổi tiếng. Đó là: WHEN YOU’RE RIGHT, YOU CAN’T HAVE ENOUGH. Đại ý của câu đó là khi bạn đoán đúng hướng đi rùi, bỏ vào bao nhiêu cũng vẫn chưa thấy đủ. Đây là cung cách của một trader nhà nghề. Họ biết tiến thoái nhịp nhành với thị trường. Họ không như mấy ông thầy giáo lẩm cẩm, cứng ngắc. Chỉ nhất quyết với một con số nào đó thôi. Trading rất là flexible ( tạm dịch là co giản). Khi biết mình thắng thì phải tấp vào tối đa. Cơ hội không đến lần thứ hai. Cho nên khi cờ tới tay thì phải phất. Phải “clean out” đối thủ của mình cho sạch sẽ. Để lấy đó làm vốn. Lở mai mốt mình có bị clean lại thì còn vốn mà phục thù. Đối với tôi thương trường là chiến trường. Traders phải biết tiến thoái nhip nhàng với thị trường và co giản theo nó. Đó là cái gọi là money management của tôi. Bạn hỏi 10 người khác thì sẽ có 10 câu hỏi khác nhau.
Muốn kiếm tiền sống trong forex trading thì có người nói là 50K trở lên. Theo tôi thì cái này tùy mổi người và hoàn cảnh xã hội. Ở Mỹ này thì 50K để trade và kiếm sống thì khó lắm, vì chi phí hàng tháng rất nhiều. Ở VN thì có thể được.
-Những chiến thuật mà các anh thường sử dụng (nếu thấy tiện )
-Kiên nhẫn và kiên nhẫn ngồi đợi cho đến khi market có một signal mà mình không thể bỏ được thì mới nhảy vào. Vào rùi mà thấy đúng thì tấp tối đa vào. Xong rùi thì chạy cho nhanh. Đủ no là dông. Không tiếc rẻ gì nữa cho dù nó có lên cao hơn sau này nhiều. Traders có câu: You never go broke taking profits. Tạm dịch là bạn không bao giờ sạt nghiệp khi có lời. Lời ít hay lời nhiều điều do chính mình mà thôi. Trên thị trường có hai lực mà người trader luôn tránh: FEAR & GREED. Fear là sợ. Greed là tham. Cả hai cái này đều dẫn đến cửa tử. Khi thua, người ta sẽ đâm ra sợ vô cớ. Khi thắng người ta sẽ ngạo mạn và chơi liều. Cái sai thứ nhất (fear) làm cho người ta chậm chạp khi cơ hội tới tay mà không dám chụp vì sợ thua nữa. Thành ra, không bao giờ gở lại cái mình đã thua. Còn Greed thì vì đã thắng lớn, hay thắng nhiều nên con người đâm ra tự cao. Trong lịch sử của financial trading có hàng hà sa số xác chết của những traders loại này. Thành danh cũng nhanh và chết còn nhanh hơn. Chết loại này thường là một đi không trở lại. Vĩnh viễn ra khỏi cuộc chơi. Cho nên người biết trade, loại người đã nắm hết những basic knowledge, thường luôn xem xét lại bản thân mình sau mỗi cuộc chơi. Đừng quá buồn khi thua, mà cũng đừng quá mừng khi thắng. YOU ARE AS GOOD AS YOUR LAST TRADE. Có nghĩa là cái trade sắp tới là một trò chơi mới, với một sát xuất thắng thua bằng nhau. Khoan hãy mừng vội, nếu bạn may mắn thắng trong kỳ trade vừa qua.
-Có phải chart của tất cả các cặp tiền tệ thì có tính chất giống nhau?
-Không. Chart của mỗi đồng currency tuy có giống nhau qua một tính chất là trend, vì trend là điểm khá đặc thù của currency. Nhưng không phải chart của tất cả đồng tiền đều giống nhau. Lý do là mỗi một đồng tiền đều có mức giao động riêng, gọi là volatility. Volatility của mỗi đồng tiền giống như là dấu tay của chúng ta. Mỗi người đều có một dấu tay khác nhau. Volatility của mỗi đồng tiền cũng thế. Dựa vào điểm này mà traders có thể có những cách trade cho mỗi đồng tiền mỗi cách khác nhau.
Quote
Các vấn đề về Brokers
Nên chọn Broker như thế nào cho an tòan?
Các mánh khóe mà Brokers thường sử dụng?
An toàn tùy theo định nghĩa của người chơi. Ở những nơi khác thì sao tôi không biết, nhưng ở Mỹ thì luật pháp rất chặc chẻ nên vấn đề gạt gẩm khá ít. Hơn nữa, lúc lựa broker thì nên chọn các hãng lớn, có uy tín chút chút. Tuy nhiên, nói chung thì điều quan trọng nhất khi chọn một broker là tiền của khách gởi vào phải được bảo đảm tối đa. Khi chọn broker thì cần phải hỏi họ một điều quan trọng nhất. Đó là tiền của khách và của hãng được giữ như thế nào? NÓ PHẢI ĐƯỢC NẰM TRONG HAI LOẠI ACCOUNT RỎ RỆT. GỌI LÀ SEGREGATION FUND. Có nghĩa là công ty phải có 2 accounts nằm tại clearing firms. Một account là tiền của công ty. Account kia là tiền của khách. Làm như thế lở mai sau mà công ty có sập tiệm thì tiền khách không bị các creditors của công ty làm khó dể. Xin coi trường hợp của REFCO thì rỏ.
-Market makers khác Brokers như thế nào ?
-Câu hỏi này liên quan đến cơ cấu của thị trường tài chánh nói chung, chứ không hẳn của currency market mà thôi. Currency market mới được thành lập (currency trading) vào khoảng năm 1973 khi TT Nixon bải bỏ hiệp ước Brettonwood. Cùng thời điểm đó là giai đoạn bắt đầu của OTC market tại Hoa Kỳ. Cho nên currency market xài OTC model làm phương pháp mua bán currency.
Trong phương thức điều hành một thị trường tài chánh qua hình thức đấu giá, người ta có hai models. Model thứ nhất gọi là SPECIALIST. Đây là phương thức mà thị trường NYSE đã xài gần 100 năm qua. Phương thức thứ nhì là MARKET MAKER của Nasdaq. Market making là một cách tạo nên market trong đồng tiền nào đó, chẳng hạn như đồng Euro, hay trong một stock nào. Nhiệm vụ của người market maker là KIẾM NGƯỜI MUA VÀ NGƯỜI BÁN để hai người này có thể trao đổi hàng hóa với nhau theo đúng danh từ của chữ MARKET. Họ là người tạo ra thị trường bằng cách MATCH người mua và người bán lại với nhau. Đó là định nghĩa và nhiệm vụ của họ. Họ không có trách nhiệm về giá cả thị trường. Giá cả là do người mua và bán quyết định. Nếu anh bạn là một cậu học trò, và câu hỏi này liên quan đến bài tập trong trường thì đây là câu trả lời chính xác về định nghĩa của một market maker là gì.
Ngược lại, trong thực tế khi chúng ta trade thì market maker có thể làm một trong hai điều sau đây. Họ có thể EXECUTE cái order trên hai phương diện: AGENCY & PRINCIPAL. Nếu họ execute cái order trên phương diện agency thì có nghĩa là họ chỉ match người mua và người bán lại với nhau. Họ không có thắng thua gì trong cái order đó. Có nghĩa là họ không có dự phần vào công việc trading. Lợi nhuận của họ trong cái trade này là điểm spread của giá, thường là 3 đến 4 pips. Còn nếu họ execute cái order trên phương diện của một PRINCIPAL thì cái đó có nghĩa là họ chấp nhận mua bán với khách. BUY order mà vào thì họ sẽ chấp nhận bán ra để thỏa mãn cái order đó. SELL order mà vào thì họ sẽ mua vô. Nói các khác, họ là chấp nhận take the opposite side of the trade. Không phải brokerage house (danh từ nhà nghề khi nói đến các hãng broker) nào cũng làm được như thế. Nếu hãng broker chỉ có thể execute order của khách qua hình thức AGENCY thì họ chỉ là broker theo đúng nghĩa danh từ. Còn hãng nào mà chơi luôn hai thứ. Đó gọi là BROKER & DEALER. Đây là dân thứ dữ, là đại gia của nghề brokering. Theo tôi biết thì hầu hết các broker mà chúng ta (retail clients) xài đều là broker thui. Còn các đại công ty như Citibank, Bank of America thì mới là Broker Dealer.
Điều chót nữa về market maker là trong cái tờ giấy thông báo mua bán của mỗi order, nó có một hàng số chừng 21 con. 21 con số đó tượng trưng cho ngày giờ, địa điểm, code của market maker, và vị thế của order được execute. Dĩ nhiên tất cả đều là code, chúng ta đọc vào sẽ chả hiểu gì cả. Nhưng mà nếu có chuyện gì cần đến pháp luật thì tờ giấy đó đều ghi đủ cả. Với internet hiện nay thì không còn ai nhận tờ giấy đó nữa vì gởi ra tốn tiền tem và nhiều chi phí khác, nhưng tất cả các broker đều phải có một copy lưu trữ khi cần.
Các câu trả lời được thực hiện bởi Vietcurrency
-Bản chất của Forex là gì ?
-Forex là một thị trường cũng như bao thị trường tài chánh khác mà thôi. Tuy nhiên, bản chất của nó không phải là đầu tư, mà là hedge. Có nghĩa là người ta sinh ra nó để nó giúp các đại công ty, các ngân hàng bảo vệ tài sản, sản phẩm của họ qua hình thức tài chính. Thị trường nào cũng có hai loại người chính, hedgers hay có thể là investors, và speculators. Hedgers là người tạo nên lực nhu cầu của thị trường. Còn speculators thì tạo nên liquidity cho thị trường. .
-Forex họat động 24/24 ,vậy tai sao mỗi ngày lại có giờ mở cửa của các thị trường.
-Giờ mở cửa các thị trường là giờ bản xứ. Còn forex market thì lúc nào cũng mở cửa. Thị trường bản xứ, chẳng hạn như thị trường Hoa Kỳ, có thể đóng. Nhưng currency market vẫn có thể trade tại một thị trường khác, ở một giá gần như là tương tự giá của thị trường vừa đóng.
-Có phải lúc đó các Big trader bắt đầu họat động ?
Không. Traders không hoạt động theo giờ. Họ họat động theo news và theo tầm quan trọng của những sự việc đang xảy ra vòng quanh thế giới đã và đang ảnh hưởng vào giá thị trường.
Các US Trader giữ vai trò như thế nào đ/v Currency market ? Giờ họat động của họ ?
Traders là một bộ phận chung của thị trường, chứ không phải đứng ngoài thị trường. Họ không có nhiệm vụ gì hết. Họ vào cuộc chơi với một ý nghĩ duy nhất. Đó là kiếm tiền, và kiếm cho thật nhiều tiền. Đơn giản vậy thôi. Tuy nhiên, với một túi tiền lớn gấp trăm ngàn lần số tiền của các chú retail, professional traders cung cấp cho thị trường một điều quan trọng nhất của tất cả market. Đó là liquidity.
-Những yếu tố nào cần có để trở thành successful trader?
Discipline ( Kỷ luật). Một đoàn quân thiện chiến không phải nhờ người lính giỏi, mà nhờ người lính kỷ luật. Trong các quân binh chủng của thế giới, ai cũng biết Nhảy Dù là thiện chiến nhất. Họ thiện chiến vì họ là binh chủng kỷ luật nhất của quân đội. Traders cũng thế. Thương trường hôm nay cũng giống chiến trường năm xưa. Ra trận mà thiểu kỷ luật bản thân. Trade lung tung. Trade theo hứng, trade vì tham. Trade vì tự cao, tự ái thì cái chết trong thương trường sẽ không xa lắm.
-Các giai đọan mà Protrader thường trải qua?
Đau thương và nhiều đau thương. Nhiều đến nổi mỗi lời nói khi chia sẽ kinh nghiệm với người khác là một bài học trong quá khứ. Nhìn vào chart, thấy formation hiện ra trước mặt, hiểu nó. Nhưng song song với cái hiểu đó là bài học đau thương của dĩ vảng. Không nhớ cũng không đươc.
-Nên phối hợp giữa TA và FA như thế nào? Cái nào giữ vai trò chủ đạo?
-TA là cho trade thuần túy. Đó là một nghệ thuật mua bán qua phương cách đo lực cung cầu thị trường. FA là một môn học chính thống, được đào tạo bởi những đại học danh tiếng, và có bằng cấp hẳn hòi.
Cái nào giữ vai trò chủ đạo? Bạn tự định nghĩa mình là gì? Trader hay investor. Nếu là traders thì chỉ nên tìm hiểu FA một mức cần thiết nào đó thôi. Biết đủ để hiểu các tin tức và phản ứng của thị trường là đủ.
-Đối với TA nên sử dụng những công cụ nào?
-Mỗi công cụ có một cách xài khác nhau. Có nhược điểm và ưu điểm khác nhau. Không thể nói cái nào hơn cái nào, tuy rằng có một số công cụ thường được người ta xài nhiều hơn những cái khác. Nhưng đó không có nghĩa là công cụ đó là tuyệt đối.
-Cách xác định Entry/Exit point?
-Muốn biết xài entry hay exit cho đúng thì phải biết coi formation. Nắm formation cho chính xác mới nói đến entry và exit. Entry và exit là một nghệ thuật tối quan trọng trong trading. Nó phân biệt giữa một người biết trade và một tay nhà nghề. Vì kỷ thuật entry/exit này sẽ làm tiền lời tăng hay giảm gần 50% nhiều hơn, nếu biết chọn đúng hai điểm trên.
-Cách đặt Stop loss/Target?
Tùy cá nhân và tùy market nữa. Không thể nói suông được. Có người thì chọn đại vài chục pips và chấp nhận thua ở điểm đó. Có người thì theo dỏi market và quyết định cut loss khi họ không thấy hy vọng nữa. Có người vừa nhảy vô, thấy không êm là chạy liền không do dự. Tôi thuộc thành phần chót. Thấy không êm là dông mất. Trade kiểu này nhiều khi cũng bực mình vì mình bị market nó rỉa hoài, nhưng theo tôi thì kiểu này nó bảo vệ vốn lâu dài. Và câu hỏi "thế nào là không êm", xin trả lời là trước khi nhảy vô thì mình phải có cái nhìn xa hơn hiện tại chút. Nếu mình daytrade mà vừa nhảy vào, sau 5, 10 phút mà thấy không ổn là chuẩn bị lui quân là vừa. Ngồi đó tiếc của Trời một hồi là buồn lắm . Ngồi càng lâu thì "nổi buồn càng dâng cao"
-Nên phối hợp giữa các Timeframe như thế nào?
-Mỗi cặp tiền nó có một bản chất riêng. Không thể xài một time frame để đo hết các cặp. Chẳng hạn đồng Euro thường rất dể đọc chart với 5-minute chart. Nhưng nếu đem cái timeframe đó qua đồng Pound thì sẽ sai signal. Lý do là đồng Pound giao động nhiều hơn đồng Euro, cho nên nó cần một longer timeframe để weed out những market noise.
-Money management :
Mỗi một position nên đặt bao nhiêu % vốn?
Để có thể kiếm sống được với Forex thì cần số vốn tối thiểu là bao nhiêu ?
-Mỗi Cái này thì tùy cá nhân. Có một position nên đặt bao nhiêu % vốn? người 5, 10%. Có người thì chơi xã láng luôn. Có người thì bỏ vào ít lúc đầu, nhưng thấy market bắt đầu chạy theo ý mình muốn thì họ “double down” luôn. Nói chung là cái này tùy theo bản tánh của người, và thị trường mình trade. Cá nhân tôi thì lúc đầu bỏ ít. Nhưng khi market đã confirm hướng đi thì tấp vào tối đa. George Soros—thần tượng của currency trader—đã từng nói một câu rất nổi tiếng. Đó là: WHEN YOU’RE RIGHT, YOU CAN’T HAVE ENOUGH. Đại ý của câu đó là khi bạn đoán đúng hướng đi rùi, bỏ vào bao nhiêu cũng vẫn chưa thấy đủ. Đây là cung cách của một trader nhà nghề. Họ biết tiến thoái nhịp nhành với thị trường. Họ không như mấy ông thầy giáo lẩm cẩm, cứng ngắc. Chỉ nhất quyết với một con số nào đó thôi. Trading rất là flexible ( tạm dịch là co giản). Khi biết mình thắng thì phải tấp vào tối đa. Cơ hội không đến lần thứ hai. Cho nên khi cờ tới tay thì phải phất. Phải “clean out” đối thủ của mình cho sạch sẽ. Để lấy đó làm vốn. Lở mai mốt mình có bị clean lại thì còn vốn mà phục thù. Đối với tôi thương trường là chiến trường. Traders phải biết tiến thoái nhip nhàng với thị trường và co giản theo nó. Đó là cái gọi là money management của tôi. Bạn hỏi 10 người khác thì sẽ có 10 câu hỏi khác nhau.
Muốn kiếm tiền sống trong forex trading thì có người nói là 50K trở lên. Theo tôi thì cái này tùy mổi người và hoàn cảnh xã hội. Ở Mỹ này thì 50K để trade và kiếm sống thì khó lắm, vì chi phí hàng tháng rất nhiều. Ở VN thì có thể được.
-Những chiến thuật mà các anh thường sử dụng (nếu thấy tiện )
-Kiên nhẫn và kiên nhẫn ngồi đợi cho đến khi market có một signal mà mình không thể bỏ được thì mới nhảy vào. Vào rùi mà thấy đúng thì tấp tối đa vào. Xong rùi thì chạy cho nhanh. Đủ no là dông. Không tiếc rẻ gì nữa cho dù nó có lên cao hơn sau này nhiều. Traders có câu: You never go broke taking profits. Tạm dịch là bạn không bao giờ sạt nghiệp khi có lời. Lời ít hay lời nhiều điều do chính mình mà thôi. Trên thị trường có hai lực mà người trader luôn tránh: FEAR & GREED. Fear là sợ. Greed là tham. Cả hai cái này đều dẫn đến cửa tử. Khi thua, người ta sẽ đâm ra sợ vô cớ. Khi thắng người ta sẽ ngạo mạn và chơi liều. Cái sai thứ nhất (fear) làm cho người ta chậm chạp khi cơ hội tới tay mà không dám chụp vì sợ thua nữa. Thành ra, không bao giờ gở lại cái mình đã thua. Còn Greed thì vì đã thắng lớn, hay thắng nhiều nên con người đâm ra tự cao. Trong lịch sử của financial trading có hàng hà sa số xác chết của những traders loại này. Thành danh cũng nhanh và chết còn nhanh hơn. Chết loại này thường là một đi không trở lại. Vĩnh viễn ra khỏi cuộc chơi. Cho nên người biết trade, loại người đã nắm hết những basic knowledge, thường luôn xem xét lại bản thân mình sau mỗi cuộc chơi. Đừng quá buồn khi thua, mà cũng đừng quá mừng khi thắng. YOU ARE AS GOOD AS YOUR LAST TRADE. Có nghĩa là cái trade sắp tới là một trò chơi mới, với một sát xuất thắng thua bằng nhau. Khoan hãy mừng vội, nếu bạn may mắn thắng trong kỳ trade vừa qua.
-Có phải chart của tất cả các cặp tiền tệ thì có tính chất giống nhau?
-Không. Chart của mỗi đồng currency tuy có giống nhau qua một tính chất là trend, vì trend là điểm khá đặc thù của currency. Nhưng không phải chart của tất cả đồng tiền đều giống nhau. Lý do là mỗi một đồng tiền đều có mức giao động riêng, gọi là volatility. Volatility của mỗi đồng tiền giống như là dấu tay của chúng ta. Mỗi người đều có một dấu tay khác nhau. Volatility của mỗi đồng tiền cũng thế. Dựa vào điểm này mà traders có thể có những cách trade cho mỗi đồng tiền mỗi cách khác nhau.
Quote
Các vấn đề về Brokers
Nên chọn Broker như thế nào cho an tòan?
Các mánh khóe mà Brokers thường sử dụng?
An toàn tùy theo định nghĩa của người chơi. Ở những nơi khác thì sao tôi không biết, nhưng ở Mỹ thì luật pháp rất chặc chẻ nên vấn đề gạt gẩm khá ít. Hơn nữa, lúc lựa broker thì nên chọn các hãng lớn, có uy tín chút chút. Tuy nhiên, nói chung thì điều quan trọng nhất khi chọn một broker là tiền của khách gởi vào phải được bảo đảm tối đa. Khi chọn broker thì cần phải hỏi họ một điều quan trọng nhất. Đó là tiền của khách và của hãng được giữ như thế nào? NÓ PHẢI ĐƯỢC NẰM TRONG HAI LOẠI ACCOUNT RỎ RỆT. GỌI LÀ SEGREGATION FUND. Có nghĩa là công ty phải có 2 accounts nằm tại clearing firms. Một account là tiền của công ty. Account kia là tiền của khách. Làm như thế lở mai sau mà công ty có sập tiệm thì tiền khách không bị các creditors của công ty làm khó dể. Xin coi trường hợp của REFCO thì rỏ.
-Market makers khác Brokers như thế nào ?
-Câu hỏi này liên quan đến cơ cấu của thị trường tài chánh nói chung, chứ không hẳn của currency market mà thôi. Currency market mới được thành lập (currency trading) vào khoảng năm 1973 khi TT Nixon bải bỏ hiệp ước Brettonwood. Cùng thời điểm đó là giai đoạn bắt đầu của OTC market tại Hoa Kỳ. Cho nên currency market xài OTC model làm phương pháp mua bán currency.
Trong phương thức điều hành một thị trường tài chánh qua hình thức đấu giá, người ta có hai models. Model thứ nhất gọi là SPECIALIST. Đây là phương thức mà thị trường NYSE đã xài gần 100 năm qua. Phương thức thứ nhì là MARKET MAKER của Nasdaq. Market making là một cách tạo nên market trong đồng tiền nào đó, chẳng hạn như đồng Euro, hay trong một stock nào. Nhiệm vụ của người market maker là KIẾM NGƯỜI MUA VÀ NGƯỜI BÁN để hai người này có thể trao đổi hàng hóa với nhau theo đúng danh từ của chữ MARKET. Họ là người tạo ra thị trường bằng cách MATCH người mua và người bán lại với nhau. Đó là định nghĩa và nhiệm vụ của họ. Họ không có trách nhiệm về giá cả thị trường. Giá cả là do người mua và bán quyết định. Nếu anh bạn là một cậu học trò, và câu hỏi này liên quan đến bài tập trong trường thì đây là câu trả lời chính xác về định nghĩa của một market maker là gì.
Ngược lại, trong thực tế khi chúng ta trade thì market maker có thể làm một trong hai điều sau đây. Họ có thể EXECUTE cái order trên hai phương diện: AGENCY & PRINCIPAL. Nếu họ execute cái order trên phương diện agency thì có nghĩa là họ chỉ match người mua và người bán lại với nhau. Họ không có thắng thua gì trong cái order đó. Có nghĩa là họ không có dự phần vào công việc trading. Lợi nhuận của họ trong cái trade này là điểm spread của giá, thường là 3 đến 4 pips. Còn nếu họ execute cái order trên phương diện của một PRINCIPAL thì cái đó có nghĩa là họ chấp nhận mua bán với khách. BUY order mà vào thì họ sẽ chấp nhận bán ra để thỏa mãn cái order đó. SELL order mà vào thì họ sẽ mua vô. Nói các khác, họ là chấp nhận take the opposite side of the trade. Không phải brokerage house (danh từ nhà nghề khi nói đến các hãng broker) nào cũng làm được như thế. Nếu hãng broker chỉ có thể execute order của khách qua hình thức AGENCY thì họ chỉ là broker theo đúng nghĩa danh từ. Còn hãng nào mà chơi luôn hai thứ. Đó gọi là BROKER & DEALER. Đây là dân thứ dữ, là đại gia của nghề brokering. Theo tôi biết thì hầu hết các broker mà chúng ta (retail clients) xài đều là broker thui. Còn các đại công ty như Citibank, Bank of America thì mới là Broker Dealer.
Điều chót nữa về market maker là trong cái tờ giấy thông báo mua bán của mỗi order, nó có một hàng số chừng 21 con. 21 con số đó tượng trưng cho ngày giờ, địa điểm, code của market maker, và vị thế của order được execute. Dĩ nhiên tất cả đều là code, chúng ta đọc vào sẽ chả hiểu gì cả. Nhưng mà nếu có chuyện gì cần đến pháp luật thì tờ giấy đó đều ghi đủ cả. Với internet hiện nay thì không còn ai nhận tờ giấy đó nữa vì gởi ra tốn tiền tem và nhiều chi phí khác, nhưng tất cả các broker đều phải có một copy lưu trữ khi cần.
Các câu trả lời được thực hiện bởi Vietcurrency