Tổng quan về Quỹ tiền tệ IMF

kity

Active Member
Tổng quan về quĩ tiền tệ quốc tế IMF​




Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là một tổ chức quốc tế về tài chính và tiền tệ mà thành viên là chính phủ các nước. Buổi đầu thành lập, IMF chỉ là một tổ chức hợp tác để giám sát hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế, tuy nhiên nó cũng đồng thời hỗ trợ hệ thống này bằng những khoản tiền đôi khi với số lượng lớn dưới hình thức cho các nước thành viên vay.

Trên thực tế IMF có lẽ được dân chúng biết đến nhiều hơn nhờ sự kiện nó đã đưa hàng tỷ USD vào hệ thống này trong thời kỳ khủng hoảng nợ thập kỷ 80 và rót một lượng tiền khổng lồ vào Nga và Mêhicô hồi thập niên 90. Tuy nhiên IMF được thành lập với các tôn chỉ mục đích riêng của nó.

Các mục tiêu của IMF:

* Thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và cộng tác nhằm giải quyết các vấn đề tiền tệ quốc tế.

* Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế và nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế.

* Tăng cường ổn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao dịch ngoại hối giữa các thành viên và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh.

* Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên và xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế.

* Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn lực dự trữ của quỹ được đảm bảo an toàn và tạo cơ hội cho họ sửa chữa mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế.

* Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ cân bằng trong cán cân thanh toán của các nước thành viên.

Trong hơn 50 năm qua IF đã khẳng định được vai trò cũng như thực hiện mục tiêu của mình trong việc duy trì sự ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra trên quy mô ngày càng rộng với tốc độ ngày càng nhanh.

CƠ CẤU TỔ CHỨC

1. Quá trình hình thành và phát triển của IMF

Vào thập kỷ 30, đã có nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức để giải quyết những vấn đề tiền tệ thế giới. Tuy nhiên điều đó không có kết quả. Những giải pháp bộ phận và mang tính chất thăm dò đã hoàn toàn tỏ ra không đáp ứng được yêu cầu. Ðiều cần có là một sự hợp tác với quy mô lớn chưa từng có giữa tất cả các quốc gia để xây dựng nên một hệ thống tổ chức tiền tệ cách tân và một tổ chức để điều hành hệ thống này.

Mùa hè năm 1940, một sự trùng hợp kỳ lạ đã xảy ra. Hai tư tưởng độc đáo và táo bạo của Harry Dester White – Người Mỹ và John Maynard Keynes – Người Anh đã gần như đồng thời đưa ra dự thảo xây dựng một tổ chức tiền tệ quốc tế mà hành động của nó được giám sát thường xuyên bởi một tổ chức hợp tác chứ không phải bằng những cuộc gặp gỡ quốc tế thoảng hoặc. Tuy nhiên, phải sau nhiều lần thương thuyết trong điều kiện khó khăn của thời chiến, cộng đồng quốc tế mới chấp nhận một hệ thống tiền tệ mới và một tổ chức để giám sát nó. Những thương thuyết cuối cùng về thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (viết tắt là IMF) đã diễn ra ở Bretton Woods, NewHamsphire, Hoa kỳ vào tháng 7/1944 giữa 44 quốc gia. Bắt đầu từ 1-3-1947 tổ chức IMF chính thức đi vào hoạt động như một cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc (xem phụ lục 1). Khi đó IMF có 49 thành viên.

Trụ sở chính của IMF ở Washington D.C và có hai chi nhánh tại Paris và Geneve. Một nước có thể trở thành thành viên của IMF nếu nó sẵn sàng gắn bó, trung thành với các chức năng và nguyên tắc chủ đạo của IMF (xem biểu đồ 1). Từ l945 đến nay con số thành viên của IMF lên tới 182 Quốc gia. Số lượng thành viên tăng đều đặn, không có biến động chứng tỏ uy tín của IMF theo năm tháng là không thay đổi và ngày càng được zcủng cố.

Theo nhận định chung thì IMF được coi là một tổ chức uy tín lớn có tính độc lập cao và cho rằng Quỹ đề ra những chính sách kinh tế tối ưu cho các nước thành viên theo đuổi và áp đặt các quyết định cho các nước thành viên và sau đó giám sát việc thực hiện. Nhưng trái lại, chính các nước thành viên đã định ra các chính sách mà IMF phải thực hiện. Các mệnh lệnh đi từ Chính phủ các nước thành viên đến IMF mà không có lệnh ngược lại. Khi đưa ra các quy định về nghĩa vụ của từng thành viên đối với Quỹ hoặc đưa ra những điều mục của hợp đổng cho vay với một thành viên nào đó, IMF không tự hành động mà chỉ đóng vai trò trung gian giữa ý kiến đại đa số thành viên của quỹ đối với các nước thành viên đó.

2. Cơ cấu tổ chức

Cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị gồm đại diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm, 5 năm 1 lần. Hiện nay IMF có 182 ủy viên ban quản trị, mỗi ủy viên đại diện cho 1 nước khác nhau. Hội đồng quản trị họp mỗi năm 1 lần. Trong kỳ họp, Hội đồng quản trị phê chuẩn báo cáo hàng năm về hoạt động của IMF, xem xét việc kết nạp thành viên mới và khai trừ thành viên ra khỏi tổ chức, xem xét việc thay đổi vốn pháp định…(xem phụ lục 2).

Cơ quan chấp hành của IMF là Hội đồng giám đốc (còn gọi là Hội đồng điều hành). Hội đồng giám đốc gồm 22 giám đốc chấp hành trong đó 6 giám đốc do 5 nước có mức đóng góp lớn nhất và Arập xêút bổ nhiệm; 16 giám đốc do Hội nghị toàn thể bầu ra có tính đến khu vực địa lý.

Ủy ban lâm thời (Imterm Committee) Hội đồng quản trị của IMF là cơ quan tư vấn về các vấn đề quan hệ tiền tệ được thành lập tháng 10 năm 1974. Thành viên của Ủy ban lâm thời là các Bộ trưởng Tài chính của 22 thành viên. Nhiệm vụ chính của Ủy ban lâm thời là kiểm tra việc quản lý hệ thống tiền tệ thế giới và kiến nghị với Hội đồng quản trị. Nếu Hội đồng quản trị thấy cần thiết, có thể cải tổ Ủy ban lâm thời thành cơ quan thường trực có quyền thông qua nghị quyết.

Một Ủy ban khác là Ủy ban phát triển (Development Committee), phối hợp giữa IMF và ngân hàng phát triển thế giới cố vấn cho Hội đồng quản trị về những nhu cầu đặc biệt của nước nghèo.

Bởi vì các ủy viên của Hội đồng quản trị và các ủy viên của Hội đồng giám đốc đều bận bịu với công việc ở nước mình nên họ chỉ gặp mặt trong các cuộc họp định kỳ hàng năm để cùng giải quyết các vấn đề của IMF.

IMF có khoảng 2600 nhân viên, đứng đầu là Giám đốc điều hành, đồng thời cũng là Chủ tịch Hội đồng điều hành (hội đồng tự bầu chủ tịch của mình). Theo truyền thống, Giám đốc điều hành là người Châu Âu, nếu không thì cũng phải là người Mỹ. Hiện nay, Tổng giám đốc IMF là ông Michel Camdessus quốc tịch Pháp, nhận chức tháng 1/1992, phó tổng giám đốc là Richard Erb người Mỹ. Nhân viên của IMF là người của khoảng 120 nước và đa phần là nhà kinh tế học, song cũng có cả các nhà thống kê, bác học, các chuyên gia về tài chính công cộng và thuế khoá, các nhà ngôn ngữ học, nhà văn và các nhân viên phục vụ. Ða số các nhân viên đều hoạt động tại trụ sở nhỏ ở Paris, Geneve, Tokyo, tại trụ sở của Liên hợp quốc ở NewYork hoặc tại các văn phòng của IMF được thành lập tạm thời ở các nước thành viên. Khác với các giám đốc chấp hành là những đại diện của từng nước thành viên, các nhân viên của Quỹ chỉ là nhân viên quốc tế, họ có trách nhiệm thực thi chính sách của IMF chứ không đại diện cho lợi ích của bất cứ quốc gia nào.

CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA IMF

1. Xác định hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái của các thành viên

Theo quy định của văn bản hiệp định đầu, các nước thành viên đều áp dụng hệ thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định. Trong hiệp định có ghi : ”Tất cả các thành viên công nhận là chỉ cho phép diễn ra trên lãnh thổ nước mình những hoạt động hối đoái giữa các đồng tiền của mình với đồng tiền của những nước thành viên nào tôn trọng một sự cách biệt không quá 1% chế độ đồng giá”.

Do sức ép của Mỹ, Hội nghị Bretton Woods phải chấp nhận 1 tỷ lệ vàng USD là 35 USD – 1 ounce vàng. Cuối 1947 Bộ Trưởng Tài chính Mỹ, ông Johw Suyder đã tuyên bố với Tổng giám đốc của IMF là Mỹ bán và mua vàng bằng USD với giá 35 USD/ ounce cho tất cả các NHTW nào có yêu cầu. Ðiều này biến hệ thống Bretton Woods thành một hệ thống bản vị USD.

Để giải quyết vấn đề dự trữ của quỹ tháng 6-1967 Hội đồng Thống đốc IMF đã nhóm họp ở Rio de Janeiro, thủ đô Brazil và đã chấp nhận nguyên tắc tạo ra một loại dự trữ quốc tế mới là SDR (Special drawing right). Dự trữ SDR được thể hiện dưới hình thức bút tệ, được ghi trong tài khoản đặc biệt của mỗi nước thành viên và có thể sử đụng qua chuyển khoản. Giá trị của mỗi đơn vị SDR lúc ban đầu được ấn định là 0,888671 gram vàng, tương đương với hàm lượng vàng của 1 USD. Ðến năm 1973 vì có sự thả nổi hối suất của USD, giá trị của SDR được quy định căn cứ vào giá trị tổng hợp của 16 loại tiền tệ có cân nhắc tỷ trọng theo tầm quan trọng của mỗi đơn vị tiền tệ thể hiện qua phần giá trị xuất khẩu của mỗi quốc gia trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới. Năm 1981, giá trị tổng hợp đó chỉ còn căn cứ vào 5 đồng tiền của 5 nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới từ 1975-1979 là USD 40; FRF 11%; GDB 11%; JPY 17%; DEM 21%; Cứ 5 năm duyệt lại một lần: một lần vào đầu năm 1986, một lần vào đầu năm 1991.

Tuy nhiên sau hơn hai thập kỷ, hệ thống này đã bộc lộ nhiều yếu kém. Ðến đầu thập kỷ 70 khủng hoảng kinh tế đã các thành viên của quỹ làm cho nó không thể duy trì hệ thống ngang giá tiền tệ và tỷ giá hối đoái cố định giữa các quốc gia. Hệ thống Bretton Woods sụp đổ hoàn toàn vào năm 1973 khi Tổng thống Mỹ Nixon tuyên bố ngừng chuyển đổi USD ra vàng. Lý do chính là Mỹ không còn đủ khả năng về dự trữ vàng để tiếp tục quy đổi với USD theo tỷ giá 35 USD/ounce vàng. Ðể đáp ứng được yêu cầu dự trữ ổn định quỹ tiền tệ quốc tế trong hoàn cảnh mới của nền kinh tế quốc dân, IMF yêu cầu các nước thành viên thực hiện bảy nghĩa vụ cũ là:

- Thi hành chính sách tự do mua bán vàng trên thị trường.

- Tạo điều kiện cho đồng tiền của các nước được chuyển đổi tự do.

- Loại bỏ dần các hành chế về hối đoái.

- Tôn trọng quy định của các thành viên khác về hối đoái phù hợp với quy định của IMF.

- Cung cấp thông tin tài chính cho IMF

- Hợp tác với các nước khác việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế về tiền tệ .

- Duy trì 1 tỷ giá hối đoái cố định .

Hệ thống tiền tệ mà IMF quản lý từ 1978 đến nay được gọi là hệ thống tỷ giá thả nổi có quản lý (hệ thống Jamaica). Nhiều cường quốc ấn định tỷ giá của mình theo cơ chế thả nổi có quản lý. Theo cơ chế này IMF có vai trò lớn và thường kiến nghị, tác động đến chính sách quản lý tỷ giá của các nước thông qua các điều kiện tín dụng. Tuy tác động, quản lý hệ thống tiền tệ quốc tế theo nhiều cách gián tiếp nhưng IMF đã thực hiện chức năng duy trì ổn định hệ thống tỷ giá hối đoái cố định tương đối l cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, việc thực hiện chức năng này còn được hỗ trợ bởi các hoạt động thực hiện các chức năng khác.

2. Cấp tín dụng cho các nước thành viên có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán

Ðể thực hiện mục tiêu trọng tâm là duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế IMF đã cung cấp cho các nước thành viên các khoản tín dụng cho các nước có khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán. Khi một nước rơi vào tình trạng này thì buộc họ phải giảm dự trữ ngoại hối hoặc đi vay để tài trợ cho các hoạt động này. Hậu quả là các nước đó phải đối mặt với sức ép ngày càng tăng về tỷ giá hối đoái. Ðây chính là lúc IMF thực hiện chức năng của mình. Nếu gặp khó khăn về cán cân thanh toán, một nước thành viên có thể rút lại ngay lập tức 25% quota đã góp bằng vàng hoặc ngoại tệ có thể chuyển đổi Trước 1980, IMF quy định thành viên hàng năm chỉ được vay tối đa 25% và tổng các khoản vay không được quá 125% quota.

Ðể đáp ứng nhu cầu về vốn, IMF đã thực hiện nhiều biện pháp để tăng vốn. Năm 1962, IMF ký kết tổng nghị định thư về vay mượn (General Agreement to Borrow) GAB với thời hạn 4 năm. Sau đó tổng nghị định GAB được gia hạn nhiều lần và đến nay đã hoạt động ổn định. Tham gia vào GAB có 10 nước tư bản chủ chốt (Mỹ, Anh, Hà Lan, Canada, Pháp, Tây Ðức, Thụy Ðiển, Thụy Sỹ và Nhật Bản). Số vốn GAB tăng từ 6,4 tỷ SDR lên 17 tỷ SDR vào 2/83. Ðối tượng vay vốn theo GAB này ban đầu chỉ là các nước thành viên, nhưng từ năm 1984 các nước không phải thành viên cũng được tham gia. Thời hạn cho vay không quá 5 năm. Gần đây Hội đồng quản trị đã chấp nhận Hiệp định vay mượn mới (New Agreement to Borrow – NAB) cùng với 10 nước trên cũng được thực hiện với Arập Xêút và đã tạo ra một nguồn vốn 1,5 tỷ SDR. Các khoản vay NAB này sẽ có hiệu lực cho đến 26/12/1998.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính Mêhicô hồi cuối 1994 đầu năm 1995, Hội đồng quản trị IMF đã tăng cường khả năng vay vốn để đối phó với tình trạng khẩn cấp trong tương lai bằng cách thông qua NAB vào tháng l/1997. Theo NAB thì 25 nước và tổ chức có thể sẵn sàng cho IMF vay 34 tỷ SDR (47 tỷ USD) để bổ sung cho nguồn vốn đóng góp của quý khi cần thiết, ngăn chặn hoặc đối phó với tình huống bất thường có thể đe doạ sự ổn định của hệ thống.

3. Theo dõi tình hình của hệ thống tiền tệ quốc tế và chính sách kinh tế của các nước thành viên

Theo Hiệp định thành lập thì mục tiêu và hoạt động trọng tâm của IMF là “thực hiện sự giám sát chặt chẽ tỷ giá hối đoái của các nước thành viên”. Ðồng thời IMF có quyền áp đụng các nguyên tắc cụ thể để hướng dẫn các thành viên trên cơ sở tôn trọng chính sách của họ. Ðể thực hiện nhiệm vụ này IMF kiểm tra các vấn đề tiền tệ quốc tế và phân tích các khía cạnh của chính sách đó có thể tạo ra tác động đến hệ thống TGHÐ.

Trong những năm gần đây, tầm quan trọng của việc giám sát kịp thời và hiệu quả đã tăng lên do nhiều biến chuyển cơ bản trong nền kinh tế toàn cầu : tăng trưởng nhanh chóng của thị trường vốn tư nhân, hội nhập khu vực và thế giới, gia tăng, chỉnh đốn tài khoản vãng lai và cải cách kinh tế theo hướng thị trường của nhiều nước. Cuộc khủng hoảng Mêhicô năm 1995 và khủng hoảng tài chính Ðông Á 7/1997 cho thấy sự cần thiết và vai trò giám sát quan trọng của IMF. Năng l995, IMF đẩy mạnh chức năng giám sát, nhấn mạnh vào việc các thành viên cung cấp đầy đủ, chính xác các số liệu.

Theo Ðiều 4 về quan hệ hợp tác giữa IMF và thành viên, IMF được phép xem xét một cách có hệ thống sự phát triển kinh tế và chính sách kinh tế của thành viên, đánh giá tác động của các chính sách đối với tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán.

HOẠT ĐỘNG

Bất kỳ một nước thành viên nào, khi gia nhập IMF đều phải cho các thành viên khác trong quỹ biết dự định về chuẩn giá trị đồng tiền của nước mình so với đồng tiền của các nước khác để tự kiềm chế và hạn chế việc đổi đồng tiền của họ lấy ngoại tệ, và để theo đuổi những cơ sở kinh tế sẽ làm tăng của cải của nước thành viên đó và của cả cộng đồng các nước thành viên bằng con đường hòa hợp và có lợi. Các nước thành viên có trách nhiệm phải tuân theo điều luật này.

l. Vốn hoạt động của quỹ và quyền rút vốn đặc biệt (SDR)

Khi gia nhập IMF, mỗi nước thành viên đều phải đóng một khoản tiền nhất định được coi là một khoản lệ phí hội viên. Tuy nhiên khoản đóng này chỉ thực hiện khi quỹ có nhu cầu: khi có ai cần vay tiền của quốc gia đó thì quốc gia đó mới phải đóng. Chẳng hạn, nếu một nước muốn vay Bảng Anh thì khi đó IMF mới yêu cầu Anh phải đóng. Số tiền này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau:

+ Thứ nhất, nó tạo thành một khoản vốn IMF có thể trích ra cho các thành viên vay mỗi khi họ gặp khó khăn về tài chính.

+ Thứ hai, nó là căn cứ để quyết định số lượng tiền mà nước thành viên được vay và là cơ sở để phân bổ rút vốn lớn đặc biệt (SDR) theo từng thời kỳ cho các nước thành viên. Dĩ nhiên, nước thành viên nào càng đóng góp nhiều thì khi cần nó càng được vay nhiều.

+ Thứ ba, số tiền ký quỹ này còn có vai trò quyết định quyền bỏ phiếu của nước thành viên.

Bản thân IMF là người quyết định số tiền mỗi nước thành viên phải nộp vào quỹ sau khi phân tích đánh giá mức độ giàu có và tình hình kinh tế của nước đó. Nước càng giàu, lệ phí càng cao (xem phụ lục 3). Mức đóng góp của mỗi nước thành viên vào IMF rất khác nhau. Năm 1985, Mỹ đóng 20,l%, khối EEC đóng 27,9%, còn các nước đang phát triển đóng 32,4%. Mức lệ phí này cứ 5 năm lại được xem xét lại, có thể tăng lên hoặc giảm đi tùy theo nhu cầu của IMF và mức độ phát đạt của nước thành viên. Tuy nhiên từ l/4/1978, với sự sửa đổi điều lệ lần thứ hai, việc xem xét và điều chỉnh phần đóng góp của mỗi nước thành viên được quy định 3 năm một lần. Năm 1945, 35 thành viên khi đó đóng góp vào IMF 7,6 tỷ USD, năm 1977 con số đó khoảng 200 tỷ USD. Ngày 6/2/1998 Hội đồng quản trị của IMF đã phê chuẩn kế hoạch tăng 45% ngân quỹ của tổ chức này, từ 199 tỷ USD lên 288 tỷ USD. Cho đến nay, Mỹ là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, đóng góp nhiều nhất cho IMF, chiếm khoảng 19% tổng số (40 tỷ USD); Marshall Island, một nước cộng hoà đảo ở Thái Bình Dương đóng ít nhất khoảng 3,6 triệu USD.

Khoản tiền đóng góp của các nước thành viên tạo nên nguồn tài chính cho IMF sử dụng. Tổng số tiền đóng góp các nước thành viên cho đến nay khoảng 210 tỷ USD, mặc dù trên thực tế số tiền sử dụng được không thể coi là lớn bởi vì các nước thành viên nộp 75% số lệ phí của họ bằng tiền nội địa và bởi vì hầu hết đồng tiền quốc gia của nhiều nước không phổ biến trong thanh toán quốc tế.
 
Last edited by a moderator:

Pinocchio

Thành Viên Có Cống Hiến GOLD24K.INFO
Các nước thành lập IMF hồi 1944 lập luận rằng Quỹ sẽ hoạt động hiệu quả nhất và các quyết định sẽ được đề ra một cách trách nhiệm nhất nếu gắn liền trực tiếp quyền bỏ phiếu của các thành viên với số lượng tiền đóng vào Quỹ của họ . Nước nào đóng góp nhiều nhất đương nhiên tiếng nói sẽ có trọng lượng nhất khi quyết định chính sách của Quỹ. Mỹ, Anh, Pháp là những nước khi mới thành lập đóng nhiều hơn hết và cũng là những nước có ảnh hưởng nhiều hơn hết đối với các quyết định của IMF. Mỗi nước có 250 phiếu và cộng thêm l phiếu cho mỗi 100.000 SDR của phần đóng góp. Bởi vậy Mỹ hiện nay có 265.000 phiếu, hay 18% tổng số phiếu,

· Quyền rút vốn đặc biệt (SDR):

Ðó là loại tiền đặc biệt mà IMF tạo ra để bổ sung vào tài sản dự trữ mà hầu hết các nước thành viên dùng để đảm bảo nhu cầu thanh toán ngoại tệ và giao dịch với nước ngoài. Việc này đã giải quyết được nguy cơ khan hiếm những phương tiện thanh toán quốc tế.

Giá trị của mỗi đơn vị SDR lúc đầu được ấn định là 0,888671 gr vàng tương đương với hàm lượng vàng của l USD. Năm 1973, do sự thả nổi của đồng USD, giá trị của 16 loại tiền tệ có cân nhắc tỷ trọng tuỳ theo tầm quan trọng của mỗi đơn vị tiền tệ thể hiện qua phần giá trị xuất khẩu của mỗi quốc gia Hội viên trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới. Năm 1981 giá trị tổng hợp đó chỉ còn căn cứ vào 5 đơn vị tiền tệ của 5 nước có khối lượng xuất khẩu lớn nhất thế giới từ 1975 - 1979 là USD, FRF, GBP, JPY, DEM.

Từ 1999 đến nay thì đồng DEM, FRF thay bằng EUR. Ngày nay SDR dùng như tài khoản tại IMF của các nước thành viên . Sau khi hệ thống tỉ giá cố định sụp đổ, áp dụng tỉ giá thả nổi IMF công bố hằng ngày tỉ giá đồng tiền các quốc gia tương ứng với SDR

Quyền vay đặc biệt này có 2 điểm cần chú ý. Thứ nhất, vay đặc biệt cũng cần lý do cán cân thanh toán thiếu hụt như vay thông thường. Tuy nhiên trong khi vay thông thường phải làm đơn và IMF cử phái đoàn tới kiểm tra, nếu được vay thì phải thực hiện những biện pháp mà IMF yêu cầu, còn vay đặc biệt không cần phải có phái đoàn IMF tới nghiên cứu mới cho vay. Thứ hai, vay thông thường chịu lãi suất 3% còn vay đặc biệt chỉ chịu lãi suất 15%.

Hội nghị thường niên IMF ngày 3/10/1969 đã biểu quyết chấp thuận dự án cấu tạo 9,5 tỷ SDR, lần phân phối SDR đầu tiên là 3,5 tỷ SDR thi hành ngày l/1/1970, hai lần phân phối sau đó mỗi lần 3 tỷ vào đầu năm 1971 và 1972. Ðến năm 1979 thêm 3 đợt phân phối nữa vào đầu năm 1979, 1980, 1981. Tính chung, từ 1970 đến 1986 Quỹ đã tạo ra và phân phối tổng cộng 21,4 tỷ SDR, trị giá gần 29 tỷ USD, chiếm khoảng 2% tổng dự trữ thế giới.

II. Những thỏa thuận về trao đổi các đồng tiền

Theo quy định của ban điều lệ ban đầu của IMF, các nước thành viên đều áp dụng hệ thống ngang giá tiền tệ và TGHÐ cố định.

Khi hệ thống ngang giá hối đoái chấm dứt, theo điều khoản IV của điều lệ mới của IMF, toàn thể hội viên của IMF đã đồng ý cho mỗi nước thành viên được lựa chọn phương pháp xác định giá trị đồng tiền của mình. Chỉ có một yêu cầu duy nhất, đặt ra cho họ là không được tiếp tục lấy vàng làm thước đo giá trị đồng tiền của mình nữa(1) và phải thông báo một cách xác thực phương pháp định giá cho đồng tiền của mình.

III. Việc giám sát

Sự chuyển đổi từ hệ thống ngang giá hối đoái sang hệ thống tỷ giá hối đoái mới hiện nay không làm cho ảnh hưởng của IMF đến hệ thống mất đi mà còn mạnh lên. Trên thực tế, toàn thể hội viên đã yêu cầu IMF xem xét, nghiên cứu tỉ mỉ tất cả các khía cạnh của nền kinh tế có ảnh hưởng đến TGHÐ, đánh giá thành tựu kinh tế của các nước thành viên một cách hữu hiệu.
-----------------------------------------------------------------
(1) Ðiều III, khoản 3 của Hiệp định thành lập IMF quy định mỗi nước, khi gia nhập IMF phải đóng góp 25% tổng số tiền đóng góp bằng vàng của 10% quỹ dự trữ vàng - đô la chính thức của nước đó, tuỳ theo loại nào ít hơn. 75% còn lại được đóng bằng tiền quốc gia.

Từ 1/4/1978 vàng bị phế bỏ chính thức 6 hoạt động của IMF ; đình chỉ việc công bố hàm lượng vàng của tiền tệ, phần đóng góp = vàng được thay bằng đóng ngoại tệ dự trữ và đơn vị SDR, không dùng vàng để thanh toán giữa IMF và các nước thành viên. Trong thời gian 1976 - 1979, 1/6 số vàng dự trữ của IMF được hoàn trả lại cho các nước thành viên để đổi lấy tiền quốc gia theo giá 35 SDR/ ounce ; 1/6 được bán đấu giá theo giá thị trường; 2/3 còn lại được thanh toán theo giá công bố chính thức hoặc theo giá thị trường.

IMF thực hiện các mục giám sát của mình thông qua các cuộc hội thảo song phương với từng nước được tổ chức hàng năm theo điều khoản IV và giám sát đa phương một năm 2 lần trên cơ sở hoạt động xuất bản ấn phẩm ''triển vọng kinh tế thế giới'' (World Economic Outlook - WEO). Bên cạnh đó IMF còn tiến hành các kế hoạch thận trọng, theo dõi và giám sát chặt chẽ chương trình đối với các nước thành viên sử dụng nguồn tín dụng của IMF. Các kế hoạch thận trọng này nhằm nâng cao lòng tin của cộng đồng quốc tế đổi mới chính sách của nước thành viên. Công tác theo dõi chương trình có thể bao gồm việc đề ra các tiêu chuẩn đã được xây dựng sẵn chứ có không thành lập nên quy định chính thức của IMF.

IV. Các cuộc hội thảo

Bên cạnh các cuộc thảo luận định kỳ, IMF cũng tổ chức các cuộc hội thảo với những nước có chính sách ảnh hưởng lớn đến kinh tế thế giới. Các cuộc hội thảo đặc biệt này đánh giá tình hình kinh tế thế giới và những bước phát triển sắp tới: IMF công bố kết quả đánh giá này l năm 2 lần trong tạp chí ''Triển vọng kinh tế thế giới''. Ấn phẩm này bao gồm nhiều thông tin có giá trị và nhiều dự đoán về kinh tế thế giới. Hơn nữa, bằng cách nhấn mạnh tới các khả năng lựa chọn chính sách khác nhau ấn phẩm này còn giúp cho các nước thành viên kết hợp các chính sách kinh tế của chính nước mình với những thay đổi chính sách ở các nước thành viên khác.

V. Trợ giúp tài chính và trợ giúp kỹ thuật

· Trợ giúp tài chính:
IMF chỉ cho vay đối với các nước thành viên đang gặp phải các vấn đề về thanh toán, tức là các nước không có đủ ngoại tệ để trả cho số hàng nhập khẩu, khi đó các nước phải đối mặt với nhiều thực tế khó khăn nổi bật là việc giảm sức mua tiền tệ và giảm nhập khẩu từ các nước khác, kéo theo tình trạng sản xuất ngưng trệ.

Một nước thành viên gặp khó khăn thanh toán có thể ngay lập tức rút từ IMF 25% lượng mà nước này đóng góp bằng vàng hoặc bằng tiền có thể chuyển đổi. Nếu 25% này không đủ cho nhu cầu của nước đó, nước đó có thể yêu cầu IMF cho vay thêm. Khi cho một nước thành viên vay hơn 25% ban đầu, IMF phải tuân thủ theo 2 nguyên tắc.

Thứ nhất, khoản tiền mà các nước đóng cho IMF sử dụng phải tồn tại phục vụ cho lợi ích của tất cả các thành viên. Mỗi nước thành viên khi vay đồng tiền của thành viên khác từ Quỹ phải trả lại ngay sau khi khó khăn về thanh toán của nước mình được giải quyết. Bằng cách này, vốn của quỹ có thể quay vòng cho tất cả các thành viên và lúc nào cần cũng có.

Thứ hai, trước khi IMF rút tiền ra khỏi Quỹ, nước thành viên muốn vay phải cho biết kế hoạch giải quyết vấn đề thanh toán để có thể trả lại IMF trong thời hạn thông thường là 3 đến 5 năm. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, thời hạn này được kéo dài đến 10 năm.
IMF cho các nước gặp khó khăn về thanh toán vay tiền dưới nhiều cơ chế khác nhau tuỳ theo những vấn đề cụ thể được báo cáo. IMF có 8 loại tín dụng cho vay bằng tiền mặt với các điều kiện khác nhau:

1. Tín dụng thông thường (Ordinaryfacility)

Cho vay theo chương trình điều chỉnh kinh tế ngắn hạn.
- Mức vay tối đa : 100% cổ phần của nước thành viên tại Quỹ.
- Cho vay làm 4 đợt (mỗi đợt 25% tổng mức được vay). Ðợt l có thể rút luôn 1 lần 25% tổng mức được vay. Các đợt 2,3,4 vay theo từng quý, thực hiện chương trình đến đâu vay đến đó.
- Thời gian vay trả : 5 năm, thời gian ân hạn 3 năm.
- Lãi suất : 6 - 7,5%/năm.

2. Tín dụng tài chính bổ sung (Supplementar Financing facitity STF)

Khi bắt đầu vay đợt 2 tín dụng thông thường thì có thể được vay tín dụng bổ sung để bù đắp thiều hụt cán cân thanh toán.
- Có thể từ 100 - 350% cổ phần của nước thành viên (mức thiếu hụt tùy thuộc cán cân thanh toán).
- Ðiều kiện vay trả, ân hạn, lãi suất như tín dụng thông thường.

3. Tín dụng chuyển đổi hệ thống (Systemic Transformation Facility STF)

Ðây là hình thức trợ giúp các nước thành viên gặp khó khăn trong cán cân thanh toán do chuyển đổi từ kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường.

4. Tín dụng điều chỉnh mở rộng ( Extended fund facility EFF)

Cho các nước thành viên vay để thực hiện chương trình kinh tế trung hạn. Các khoản vay được cấp theo tiến độ thực hiện chương trình cam kết.
- Mức vay tối đa : 140% cổ phần của nước thành viên
- Thời hạn vay trả : 10 năm, thời hạn ân hạn : 4 năm
- Lãi suất : 6 - 7,5%/năm

5. Tín dụng bù đắp thất thu xuất khẩu

(Compensatory & Contingencyfnancing Facility CACF)
Cho các nước đang phát triển vay, khi nước này có đột biến thiếu hụt cán cân thương mại trong một năm.
- Mức vay tối đa : 100% cổ phần của nước thành viên
- Thời hạn, lãi suất . . . như vay tín dụng thông thường

6. Tín dụng duy trì dự trữ điều hoà

(còn gọi là tín dụng kho đệm - Buffer stock Facility)
Trong trường hợp các nước tham gia các hiệp hội xuất khẩu có sản phẩm xuất khẩu do sản phẩm đó mang lại, nhằm giữ lại sản phẩm chờ thanh toán lên mới bán. Ðiều kiện này như tín dụng thông thường.

7. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu (Structural Adjustment Credit SAC)

Cho các nước đang phát triển (có thu nhập < 600 USD/NĂM) vay để thực hiện chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế được quỹ chấp nhận.
- Mức tối đa : 62,5% cổ phần của nước thành viên
- Rút vốn trong 3 năm : năm thứ nhất 12,5%, năm thứ hai 20%; thứ ba 30% cổ phần.
- Thời hạn vay trả : 10 năm, thời hạn ân hạn : 5,5 năm

8. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu mở rộng

(Extentive Structural Adjustment Facility ESAF)
Các nước vay SAF cũng được vay ESAF (khi rút vốn đợt 2 của SAF thì được vay ESAF)
- Mức tối đa : 110 - 255 cổ phần nước thành viên
- Rút vốn 6 lần trong 3 năm.
- Thời hạn vay trả : 10 năm, thời hạn ân hạn : 5,5 năm
- Lãi suất : 0,5%/năm .

Hai cơ chế thường được sử dụng là các kế hoạch dự phòng và các kế hoạch mở rộng. Hai cơ chế này cung cấp một tín dụng cho thành viên gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ nước ngoài để hỗ trợ cho một chương trình kéo dài l đến 2 năm (tín dụng dự phòng, áp dụng từ năm 1952), hoặc kéo dài 3 đến 4 năm (tín dụng mở rộng, áp dụng từ 1974 cho 1 nước gặp phải sự rối loạn nghiêm trọng trong cán cân thanh toán) nhằm giúp nước đó có thời gian tổ chức lại nền tài chính và tiến hành các biện pháp duy trì tăng trưởng kinh tế. Trong suốt quá trình thực hiện chương trình nước đó có thể vay từ IMF theo định kỳ cho hết giá trị tín dụng để thanh toán nước ngoài, với điều kiện nước đó tiếp tục chương trình điều chỉnh chính sách.

Trợ giúp về tài chính bao gồm các khoản vay và tín dụng mà IMF cho các nước thành viên gặp khó khăn về cán cân thanh toán vay nhằm hỗ trợ cho các chính sách điều chỉnh và cải cách. Ngày 31/7/97, IMF đã có thỏa thuận tài chính trên với 50 nước thành viên với 1 khoản tiền là 16,831 tỷ SDR (khoảng 22,865 tỷ USD).

Bởi vì mỗi nước thành viên đều có quyền vay của quỹ lương tiền gấp mấy lần khoản lệ phí đóng góp nên IMF có thể không đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu vay của nhiều nước thành viên trong cùng một thời điểm. Ðể đối phó tình huống có thể xảy ra này. Từ năm 1962 IMF đã có được “ mức tín dụng” trị giá 24 tỷ USD với nhiều Chính phủ và ngân hàng trên khắp thế giới. Mức tín dụng này được gọi là “ hiệp định chung về cho vay“ General Agreement to Borrow - GAB, cứ 5 năm lại sửa đổi một lần. Theo hiệp định này, các nước trả lãi vay và hoàn trả vốn trong 5 năm. Thỏa thuận này được củng cố thêm bởi quyết định về “những thỏa thuận mới về vay” New Agreement to Borrow - NAB mà khi có hiệu lực sẽ tập hợp được 40 - 45 tỷ USD.

Ngoài ra, IMF còn vay tiền Chính phủ các nước thành viên hoặc các cơ quan tiền tệ để tài trợ cho một số chương trình cụ thể vì lợi ích các thành viên. Trong thập kỷ qua, nhờ việc sử dụng chế độ “đánh giá mức tín nhiệm” (credit rating) có hiệu quả, IMF đã vay tiền để cung cấp cho thành viên đang túng quẫn của mình nhiều hơn, dài hạn hơn và với nhiều điều kiện ưu đãi hơn mà nếu họ tự đi vay thì không thể nào đạt được

· Trợ giúp kỹ thuật:

Bên cạnh công việc giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế và hỗ trợ tài chính cho các nước thành viên, IMF còn giúp đỡ các nước thành viên bằng việc thiết lập 1 học viện giáo dục tại Washington, hỗ trợ về kỹ thuật cho các nước thành viên trong một số lĩnh vực chuyên môn nhất định mà IMF có thể và bằng cách phát hành nhiều ấn phẩm liên quan tới các vấn đề tiền tệ quốc tế

Do nắm bắt được những thông tin về tài chính, tiền tệ và nợ nước ngoài của từng nước thành viên nên IMF là một tổ chức duy nhất có thể chuyển các thông tin như vậy tới tất cả các nước thành viên. IMF coi việc trao đổi số liệu thống kê là điều tối cần thiết đối với quan điểm hợp tác của tổ chức này. Do vậy ngay từ đầu, IMF đã phát hành các ấn phẩm tài chính hàng tháng và hàng năm như cuốn “thống kê tài chính quốc tế ”

Ngoài những ấn phẩm thống kê và ấn phẩm ''triển vọng kinh tế thế giới'' xuất bản 6 tháng/1lần IMF còn ấn hành một báo cáo thường niên với các thông tin toàn diện về hoạt động của IMF trong năm: sách, tài liệu chuyên đề về các khía cạnh kinh tế, thể chế và pháp luật của hệ thống tiền tệ quốc tế, bản điều tra của IMF (bán nguyệt san) tập hợp các bài báo về hoạt động của IMF của từng quốc gia của tài chính quốc tế... Ngoài việc truyền thông bằng các tài liệu trên mạng World wide web, IMF sẵn sàng cung cấp nhiều bài viết trong các ấn phẩm của IMF cũng như nhiều bài viết đầy đủ trong tất cả các công văn ra đời từ đầu năm 1977.
----------------------------------
* Credit rating - Một số độ để phân loại các khách hàng và những khách hàng có thể có trong tương lai theo khả năng tài chính và mức tin cậy mà một nhà cung ứng có thể đặt vào người đó.
 
Top