Học forex với AMcenter

AMcenter

New Member
1.THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI LÀ GÌ?


Rất nhiều bạn đọc có thể sẽ bỏ qua câu hỏi này, nhưng tôi vẫn muốn đưa ra một câu trả lời ngắn gọn để những người mới bắt đầu tham gia thị trường có được những kiến thức cơ bản đầu tiên về nó, còn những ai đã có kinh nghiệm thì cũng có dịp ôn lại một lần nữa.


Thị trường Ngoại hối (tiếng Anh: Foreign Exchange Market, viết tắt là FOREX hay FX) là thị trường tiền tệ liên ngân hàng quốc tế, còn được nhắc đến dưới cái tên Thị trường Tiền mặt (Cash Market) hoặc Thị trường Liên ngân hàng Giao ngay (Spot Interbank Market). Thị trường Ngoại hối tồn tại bất cứ nơi nào mà ở đó, tiền tệ của một quốc gia này được chuyển đổi thành tiền tệ của một quốc gia khác. Chính chúng ta sẽ vô tình trở thành người tham gia vào thị trường Ngoại hối nếu như, hãy lấy một ví dụ đơn giản, trong một chuyến đi du lịch nước ngoài, chúng ta đổi tiền tệ của nước mình sang tiền tệ của nước mà chúng ta tới thăm để chi tiêu. Vì vậy, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi biết rằng nếu lấy doanh số hàng ngày của thị trường Ngoại hối chia cho dân số trên Trái đất thì mỗi người trong chúng ta đóng góp khoảng 200 đô-la Mỹ vào con số đó. Thị trường Ngoại hối phục vụ nhu cầu chuyển đổi tiền tệ vì mục đích giao dịch đơn thuần cũng như để tìm kiếm lợi nhuận.

Thị trường Ngoại hối như hiện nay hình thành sau một loạt cải cách diễn ra vào năm 1971, sau khi hệ thống quản lý tiền tệ Bretton Woods bị xóa bỏ (hệ thống này được đặt theo tên thị trấn Bretton Woods ở bang New Hamsphire, Hoa Kỳ, nơi Hội nghị Tài chính và Tiền tệ Quốc tế diễn ra vào năm 1944 dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. Tại đây, Hiệp ước Bretton Woods đã được kí kết). Các nước có nền kinh tế phát triển đã duy trì tỉ giá hối đoái cố định bằng cách neo giá trị đồng tiền của mình vào vàng cho đến năm 1971. Đây cũng chính là nguyên tắc cốt lõi của thị trường tiền tệ cho đến thời điểm đó. Sau khi hệ thống Bretton Woods bị xóa bỏ, các nước này chuyển sang hệ thống tỉ giá thả nổi, trong đó mỗi đồng tiền đều có tính tự do chuyển đổi và đều có thể được mua bán trên thị trường theo giá cả được xác định dựa vào cung và cầu thực tế đối với đồng tiền đó.

Thị trường Ngoại hối là thị trường tự do; nó không có một trung tâm giao dịch tập trung hay các tiêu chuẩn giao dịch thống nhất. Việc trao đổi tiền tệ được thực hiện thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương, công ty đầu tư, môi giới cũng như các nhà kinh doanh và đầu tư cá nhân. Hầu hết các hoạt động trên thị trường đều được xử lý thông qua các ngân hàng lớn và có ảnh hưởng, thường được gọi là những tổ chức tạo lập thị trường (market makers).

Thị trường Ngoại hối có giá trị giao dịch lớn nhất trong số các thị trường tài chính, và giá trị này cũng tăng lên rất nhanh: tổng giá trị giao dịch trong một ngày của thị trường Ngoại hối là khoảng 5 tỷ đô-la vào năm 1977, con số này tăng lên 600 tỷ đô-la mười năm sau đó, và chạm mốc 1 ngàn tỷ vào năm 1998. Ngày nay, giá trị này là khoảng 2 đến 3.5 ngàn tỷ đô-la. So sánh con số này với giá trị giao dịch của thị trường trái phiếu Mỹ - khoảng 300 tỷ đô-la – hay thị trường chứng khoán – khoảng 100 tỷ đô-la – ta sẽ thấy nó lớn tới mức nào. Giá trị giao dịch của thị trường Ngoại hối lớn gấp năm lần tổng giá trị giao dịch của tất cả các thị trường tài chính khác cộng lại.

Không lâu trước đây, chỉ có các ngân hàng lớn thực hiện các giao dịch ngoại hối. Sự hạn chế đó đã bị phá bỏ nhanh chóng nhờ sự phát triển của công nghệ, mạng Internet và đặc biệt là các phần mềm. Những yếu tố này làm cho tính thanh khoản của thị trường tăng lên còn chi phí thì giảm xuống. Dần dần, việc giao dịch kiếm lời đã phát triển bùng nổ khi tất cả mọi người đều có thể tham gia vào thị trường.

Thị trường Ngoại hối là thị trường sôi động và có tính thanh khoản cao nhất trên thế giới bởi nó mở cửa 24 giờ mỗi ngày. Nó khác biệt so với các thị trường tài chính truyền thống khác do “hàng hóa” của nó được luân chuyển rất nhanh còn chi phí giao dịch thì lại rất thấp.

Thị trường Ngoại hối:

Mang tính toàn cầu do nó không có một trung tâm thanh toán tiền mặt tập trung. Nó bao gồm nhiều thành phần tham gia tại nhiều không gian địa lý khác nhau.
Có tính thanh khoản cao. Số lượng lớn người tham gia vào thị trường khiến giá trị giao dịch lớn và cho phép bất cứ loại ngoại tệ nào cũng có thể được mua hay bán theo giá thị trường vào bất cứ thời điểm nào.
Dễ dàng tiếp cận. Thị trường Ngoại hối cũng như thông tin về nó, như tin tức hay các chỉ số tài chính, có thể được tiếp cận một cách dễ dàng. Bạn có thể mở, đóng hoặc thay đổi trạng thái giao dịch của mình bất cứ lúc nào trong ngày.
Luôn được đảm bảo chất lượng hoạt động. Mỗi giao dịch được thực hiện nhanh chóng theo giá thị trường nhờ vào tính thanh khoản cao và sự trợ giúp của hệ thống máy tính. Nó cho phép tránh được tình trạng trượt giá và các hạn chế khác trong hoạt động giao dịch hoán đổi tiền tệ.
Hoạt động 24 giờ mỗi ngày. Giao dịch được thực hiện 24 giờ một ngày, từ Thứ Hai đến thứ Sáu, trừ các ngày cuối tuần và một vài ngày nghỉ khác.
Thị trường Ngoại hối là một thị trường đặc thù, các giao dịch trong đó đều được xử lý tự động thông qua mạng Internet với sự trợ giúp của một phần mềm đặc biệt. Bởi vậy bạn không nhất thiết phải đóng bộ chỉnh tề, com-lê cà vạt mới được phép giao dịch trên thị trường và uy tín hay đạo đức của bạn trong trường hợp này cũng không giúp ích được gì nhiều. Dù trong cuộc sống thực, bạn có thể cố gắng sửa chữa sai lầm, xóa bỏ những hiểu nhầm hay dàn xếp các vấn đề, nhưng trên thị trường Ngoại hối sẽ không ai thèm quan tâm đến chuyện người đang ngồi trước màn hình và thực hiện giao dịch là ai. Điều này thoạt nghe có vẻ không hay. Nhưng tôi nghĩ đó cũng là một điểm tốt bởi vì nó là sự đảm bảo cho một thị trường tự do và rằng hiểu biết của bạn sẽ được đánh giá đúng với giá trị thực của nó. Lợi nhuận thu được là bằng chứng duy nhất và không thể chối cãi cho thành công của chính bạn. Hãy làm tốt và bạn sẽ không bao giờ bị đánh giá thấp!

Có ba lý do chính khiến người ta tham gia vào thị trường Ngoại hối: đầu tư, bảo vệ mình khỏi các rủi ro tiền tệ và đầu cơ. Nhưng lý do cuối cùng mới là động cơ chính của những người tham gia thị trường, bởi có đến 80-90% các nhà kinh doanh hướng tới mục đích tìm kiếm lợi nhuận nhờ vào chênh lệch tỉ giá. Các đồng tiền và cặp tiền tệ trên thị trường Ngoại hối cũng đồng thời được sử dụng trong các giao dịch tài chính với vai trò là phương tiện thanh toán. Chính các giao dịch thanh toán quốc tế được thực hiện bởi các doanh nghiệp và tổ chức là đảm bảo cho sự vận hành của nền kinh tế nói chung, cũng như hoạt động và sự ổn định thị trường Ngoại hối nói riêng.

Mọi người thường hay nói rằng kinh doanh Ngoại hối chứa đựng nhiều rủi ro? Vậy thực hư thế nào? Sự thay đổi nhanh chóng của giá cả tại đây không có nghĩa là nó rủi ro hơn các thị trường tài chính khác. Chắc chắn là có nhiều rủi ro hiện hữu trên thị trường Ngoại hối, tuy nhiên nó không phải là không thể tránh được. Bản thân thị trường là trung lập và thua lỗ cũng không phải là thuộc tính của nó. Điều quan trọng nằm ở quyết định mua hay bán của người kinh doanh. Nếu bạn bị chiếc búa đập vào tay thì liệu chiếc búa có đáng trách hay không? Và liệu bạn có ngừng làm việc vì sợ bị búa đập không? Quan trọng là bạn cần nhìn nhận một cách rõ ràng rằng bản thân đầu tư không phải là một rủi ro mà là quá trình quản trị rủi ro. Bạn không được phép lờ đi những rủi ro hiện hữu. Bởi vì trong khi cố gắng tối đa hóa lợi nhuận, bạn có thể bị thua lỗ nặng nề. Trước khi bắt tay vào kinh doanh, hãy tính toán khả năng tài chính của mình, chuẩn bị tậm lý sẵn sàng cho một quá trình làm việc chăm chỉ chứ không phải một cuộc phiêu lưu thú vị.
 

AMcenter

New Member
2.THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI GIAO DỊCH CÁI GÌ?
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là thị trường duy nhất trong đó tiền vừa là hàng hóa vừa là phương tiện trao đổi. Nó minh họa một cách sống động cho câu nói quen thuộc “Tiền lại đẻ ra tiền”. Tiền là tài sản có tính thanh khoản cao nhất; tiếp theo là các tài khoản séc và tài khoản vãng lai. Những loại hình tài sản này giúp cho ngân hàng khai thác và sử dụng tiền một cách dễ dàng và nhanh chóng.

Các ngân hàng có thể mua và trao đổi một lượng tiền lớn với nhau mà không cần bất cứ thỏa thuận hay hợp đồng kèm theo nào bởi uy tín giữa các ngân hàng tham gia hoạt động thanh toán là tuyệt đối (chỉ có những ngân hàng đủ độ tin cậy, đủ vốn và việc quản trị rủi ro đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng trung ương mới được phép tham gia vào thị trường). Những ngân hàng này đảm bảo rằng việc thanh toán sẽ được thực hiện theo thỏa thuận.

Mặt khác, các nhà kinh doanh lại luôn phải chịu những rủi ro tài chính nhất định khi giao dịch mua bán tiền tệ, cho nên người ta có đầy đủ lý do để nói rằng nhà kinh doanh đang kinh doanh RỦI RO và anh ta được đền đáp vì đã gánh chịu những rủi ro đó. Trong thế giới hiện đại, rủi ro là một hàng hóa được ưa chuộng. Cũng giống như ngành kinh doanh bảo hiểm, các nhà môi giới bảo hiểm kí kết hợp đồng với khách hàng của mình (trên thị trường Ngoại hối, các nhà môi giới cũng kí hợp đồng với khách hàng) và sau đó bán những hợp đồng này cho các công ty bảo hiểm lớn (với tính chất giống nghiệp vụ thanh toán bù trừ trên thị trường Ngoại hối). Bởi vậy, các nhà môi giới chính là người mua lấy rủi ro, còn các công ty bảo hiểm lớn, những nhà buôn lớn, thì hoàn toàn kiểm soát được rủi ro đó do số lượng khách hàng mua bảo hiểm là rất lớn.

Giao dịch ký quỹ giúp các nhà kinh doanh có cơ hội dùng đòn bẩy tài chính đối với các giao dịch mua bán tiền tệ của mình, cho phép họ giao dịch bằng số tiền lớn hơn so với số dư thực có trên tài khoản. Tất nhiên việc đó làm tăng thêm rủi ro thua lỗ, nhưng mặt khác, thị trường cũng có những nguyên tắc cho phép nhà kinh doanh hạn chế rủi ro đó bằng cách đóng trạng thái giao dịch của mình vào bất cứ thời điểm nào. Thị trường có tính thanh khoản rất cao và mặc dù các biến động về giá có vẻ lớn khi sử dụng đòn bẩy những cũng không bao giờ vượt quá 2% trong phạm vi một ngày giao dịch.

Những người tham gia vào thị trường Ngoại hối luôn luôn bán một loại ngoại tệ này để có được một loại ngoại tệ khác. Chẳng hạn, họ bán hoặc mua euro lấy đô-la Mỹ. Để tránh hiểu nhầm về hoạt động trao đổi mà chúng ta thực sự thực hiện, thuật ngữ “đồng tiền định giá” (basic currency) ra đời. Đồng tiền đầu tiên trong cặp tiền tệ được trao đổi với nhau sẽ là đồng tiền định giá. Ví dụ, đồng tiền định giá của cặp EUR/USD là đồng euro. Chúng ta sẽ mua hoặc bán đồng euro bằng đồng đô-la Mỹ.

Từ trước tới nay, đồng đô-la Mỹ có thể vừa là đồng tiền đứng thứ nhất vừa là đồng tiền đứng thứ hai trong rất nhiều cặp tiền tệ khác nhau. Thường thì đồng tiền đầu tiên trong một cặp tiền tệ sẽ có giá trị lớn hơn tại thời điểm nó bắt đầu xuất hiện trên thị trường. Vì thế nên khi đồng euro ra đời năm 1999, nó đã đứng trước đồng đô-la Mỹ trong cặp EUR/UDS do tại thời điểm đó nó có giá cao hơn (một euro tương đương 1.1850 đô-la Mỹ). Tỷ giá hối đoái sẽ được gọi là tỷ giá trực tiếp nếu đồng đô-la Mỹ trong cặp tiền tệ là đồng tiền đứng đầu tiên (ví dụ USD/CHF, USD/JPY). Tỷ giá hối đoái sẽ được gọi là tỷ giá gián tiếp nếu đồng đô-la Mỹ trong cặp đó là đồng tiền đứng thứ hai (ví dụ EUR/USD, GBP/USD, AUD/USD). Đương nhiên, hoạt động hối đoái không chỉ được thực hiện bằng đồng đô-la Mỹ, và tỷ giá hối đoái trong đó không có mặt đồng đô-la Mỹ được gọi là tỷ giá chéo hay tỷ giá ngoại lai. Các tỷ giá ngoại lai có giá trị giao dịch lớn nhất là EUR/GBP, EUR/JPY, EUR/CHF.
 

AMcenter

New Member
3.NHỮNG LOẠI TIỀN TỆ CƠ BẢN NÀO ĐƯỢC GIAO DỊCH TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI?
:bansung
$ Đô-la Mỹ (USD)

Đô-la Mỹ là đồng tiền chính trên thị trường thế giới. Các đồng tiền khác cuối cùng đều được định giá trên cơ sở cặp tiền tệ với đồng đô-la Mỹ. Vai trò và ý nghĩa của đồng đô-la Mỹ thường phát huy mạnh mẽ nhất trong những thời kỳ xảy ra bất ổn chính trị. Điều này đã được chứng minhtrong cuộc khủng hoảng ở Châu Á vào năm 1997-1998.

Đô-la Mỹ trở thành ngoại tệ chính kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi hệ thống quản lý tiền tệ Bretton Woods dựa trên tiêu chuẩn vàng ra đời. Vào thời điểm đó, ¾ lượng vàng dự trữ của thế giới đều tập trung tại Mỹ. Tất cả các đồng tiền đều được định giá bằng đô-la Mỹ, và đô-la Mỹ đến lượt nó lại được chuyển thành vàng với giá 35 đô-la một ounce. Tỷ giá cố định giữa vàng và đô-la Mỹ đã được duy trì cho đến năm 1971 khi Mỹ không còn khả năng đảm bảo việc chuyển đổi đồng đô-la của mình thành vàng nữa do khủng hoảng kinh tế. Kể từ đó, tiền tệ cũng trở thành hàng hóa, và chúng có thể được mua bán trên thị trường liên ngân hàng với giá cả do thị trường quyết định giống như các loại hàng hóa khác. Giá của chúng do cung và cầu quyết định do thị trường có tính chất mở cửa và tự do. Ngày nay, khoảng 50 đến 61% dự trữ của các ngân hàng trung ương các quốc gia là đồng đô-la Mỹ. Đây vừa là phương tiện thanh toán toàn cầu, vừa là một công cụ đầu tư, vừa là tấm lá chắn tiền tệ cho các quốc gia trong trường hợp xảy ra khủng hoảng tài chính và chính trị. Sự xuất hiện của đồng euro (đồng tiền chung Châu Âu) vào năm 1999 chỉ làm giảm đi đôi chút sức ảnh hưởng của đồng đô-la Mỹ. Liên minh đồng đô-la bao gồm đồng tiền của các quốc gia ở Bắc Mỹ và vùng vịnh Ca-ri-bê. Nó cũng bao gồm cả đồng đô-la Đài Loan, đồng won Hàn Quốc, đô-la Singapore, và đô-la Hồng Kông bởi những đồng tiền này đều gắn chặt với đồng đô-la Mỹ.

Tổng giá trị đồng đô-la Mỹ được đưa vào lưu thông đã đạt 300 tỷ vào năm 1995 và tăng lên 700 tỷ vào đầu năm 2004. Hai phần ba trong số đó đang nằm ngoài lãnh thổ nước Mỹ. Thực tế đó thể hiện tầm quan trọng của đồng đô-la Mỹ với vai trò là ngoại tệ dự trữ. Nó cũng là phương tiện trao đổi tiêu chuẩn tại các thị trường hàng hóa, đặc biệt là thị trường vàng và dầu mỏ. Rất nhiều công ty không có mặt trên thị trường Bắc Mỹ nhưng vẫn niêm yết giá các loại hàng hóa và dịch vụ của mình bằng đồng đô-la Mỹ trên thị trường quốc tế. Ví dụ, nhà sản xuất máy bay của Châu Âu - Airbus chỉ sử dụng đồng đô-la Mỹ làm cơ sở để xác định giá các thiết bị do mình sản xuất.

Nhà kinh tế học nổi tiếng Paul Samuelson cho rằng chính nhu cầu đối với đồng đô-la Mỹ ở nước ngoài đã cho phép nước này tài trợ thâm hụt thương mại mà không khiến đồng tiền của mình mất giá. Tuy nhiên, tình trạng này cũng có thể gây ra tác động tiêu cực đối với sự ổn định tài chính và tỷ giá đồng đô-la Mỹ trong tương lai.

Hiện nay, đô-la Mỹ đang dần mất đi vai trò và ảnh hưởng của mình trên thế giới do tỷ giá của nó so với nhiều đồng tiền khác đang sụt giảm đồng thời sức mạnh kinh tế của khu vực đồng đô-la cũng đang suy yếu. Như vậy, câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có nên chấm dứt dùng đồng đô-la Mỹ như đồng tiền duy nhất trong thanh toán quốc tế và dự trữ quốc gia.

Phần lớn các nhà kinh tế học, bao gồm cả cựu Giám đốc Cục dự trữ Liên bang Mỹ Alan Greenspan, người đã điều hành ngân hàng trung ương lớn nhất thế giới này trong vòng 18 năm, đều cho rằng đồng đô-la Mỹ đang từ bỏ vị trí đồng tiền dự trữ của thế giới, đó cũng chính là lí do tại sao tỷ giá của nó lại lao dốc mạnh đến vậy. Cùng lúc đó, Trung Quốc, quốc gia có lượng dự trữ Ngoại hối bằng đồng đô-la Mỹ lớn nhất (trên 1.43 ngàn tỷ), đang mong muốn đa dạng hóa nguồn dự trữ của mình bằng các đồng tiền khác như đồng euro, điều chắc chắn sẽ có tác động ngược trở lại tới tỷ giá đồng đô-la Mỹ.

€ Euro (EUR)

Euro là đồng tiền có tổng giá trị lưu thông lớn thứ hai thế giới. Năm 1979, Liên minh Châu Âu cho ra đời Liên minh tiền tệ chung Châu Âu, ECU, và đồng ECU ra đời trên cơ sở 12 đồng tiền của các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất trọng Liên minh. Hiệp định Maastricht xác định rổ ngoại tệ tương ứng như sau:

ECU = 30.1% đồng Mác Đức (DEM) + 19.0% đồng Franc Pháp (FRF) + 13.0% đồng Bảng Anh (GBP) + 10.2% đồng Lia Italia (ITL) + 9.4% đồng guilder Hà Lan (NGL) + 7.6%đồng Franc Bỉ (BEF) + 5.3% đồng peseta Tây Ban Nha (ESP) + 2.4% đồng Krone Đan Mạch (DKK) + 2.7% các đồng tiền còn lại.

Euro là đồng tiền độc lập, ra đời vào năm 1999 và thay thế đồng ECU với tỷ giá trao đổi 1:1. Cặp tiền tệ EUR/USD được niêm yết lần đầu tiên với tỷ giá 1.1850 đô-la Mỹ một euro. Các đồng giấy bạc và tiền xu Euro ra đời vào năm 2002. Kể từ đó euro chính thức trở thành một loại tiền tệ của thế giới. Khối tiền tệ euro bao gồm khu vực sử dụng đồng Euro, đồng franc Thụy Sĩ và tiền tệ của các nước vùng Scandinavi. Tổng giá trị đồng euro đang lưu thông đã đạt 610 tỷ vào năm 2006, lần đầu tiên trong lịch sử vượt qua đồng đô-la Mỹ.

Cựu Giám đốc Cục dự trữ Liên bang Mỹ Alan Greenspan đã từng tuyên bố vào tháng Tám năm 2007 rằng đồng euro nên thay thế đồng đô-la trong vai trò ngoại tệ dự trữ, hoặc ít nhất cũng trở thành một lựa chọn khác cho các quốc gia ngoài đồng đô-la Mỹ. Tuy nhiên, thực tế là cho đến cuối năm 2006, 65.7% dự trữ ngoại tệ của thế giới vẫn ở dưới dạng đồng đô-la Mỹ, chỉ có 25.2% là đồng euro.

Sự cách biệt về kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực đồng euro cũng như tỷ lệ thất nghiệp cao và sự ngần ngại của chính phủ các nước này trong việc thực hiện cải cách cơ cấu đã tác động tiêu cực lên sự ổn định của đồng euro.

¥ Yên Nhật (JPY)

Đồng Yên Nhật đứng vị trí thứ ba về khối lượng giao dịch và tính phổ biến đối với các nhà kinh doanh ngoại hối. Giá trị lưu thông của đồng Yên không nhiều như đồng đô-la Mỹ và Euro, nhưng xét về tính thanh khoản thì nó không có đối thủ, một phần do tổng giá trị giao dịch thực tế trong các chu trình trao đổi kinh tế trong khu vực là rất lớn nhưng chủ yếu là nhờ Nhật Bản có giá trị xuất khẩu khổng lồ. Các keiretsu của Nhật Bản - các tập đoàn tài chính công nghiệp lớn - có ảnh hưởng rất sâu sắc tại quốc gia này.

Chính phủ Nhật Bản đã theo đuổi chính sách lãi suất ngân hàng bằng không kể từ năm 1995. Theo đó ngân hàng trung ương Nhật Bản luôn giữ lãi suất cơ bản ở mức gần 0% nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Lãi suất này đã từng đạt mức thấp 0.15% sau nhiều lần cắt giảm, nhưng sau đó lại tăng mạnh lên 0.25%. Đến năm 2007 nó đã tăng lên 0.5%. Chính sách này dẫn đến một loại hình đầu cơ mới, đầu cơ vào sự chênh lệch lãi suất giữa các loại tiền tệ khác nhau (carry trade). Lợi nhuận có được là nhờ sự khác biệt giữa lãi suất cơ bản thấp của đồng Yên và lãi suất cao hơn của các đồng tiền khác. Các nhà kinh doanh sẽ đi vay đồng Yên để mua các loại tiền tệ có lãi suất cao hơn như đô-la New Zealand hay đô-la Australia. Sự chênh lệch lãi suất có thể cho lợi nhuận rất lớn sau một thời gian dài.

Tính tổng số, đã có trên một ngàn tỷ Yên Nhật được vay để thực hiện đầu cơ chênh lệch lãi suất trong thời kỳ hoàng kim của hoạt động này. Nó dẫn đến tỷ giá vô cùng thấp của đồng Yên so với các đồng tiền khác. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, tính đến tháng Hai năm 2007, đồng Yên đã bị định giá thấp hơn so với đồng đô-la khoảng 15% và trên 40% so với đồng euro. Đồng Yên trước nay vẫn rất nhạy cảm với biến động của chỉ số chứng khoán Nikkei cũng như biến động trên thị trường bất động sản.

£ Bảng Anh (GBP)

Đồng bảng Anh đã từng là đồng tiền chính của thế giới cho đến khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ Hai, khi nó từng bước nhường vai trò này cho đồng đô-la Mỹ. Từ tiếng lóng vẫn thường được sử dụng để chỉ đồng Bảng Anh – cable (có nghĩa là dây cáp) – bắt nguồn từ việc sử dụng điện tín có dây để thực hiện lệnh chuyển tiền trong hoạt động thanh toán và hối đoái vào thời kỳ mà tất cả các đồng tiền đều được quy đổi theo đồng bảng Anh.

Đồng bảng Anh đã từng là một phần của hệ thống trao đổi tiền tệ Châu Âu trong vòng 2 năm 1990-1992 và được gắn chặt với đồng Mác Đức. Điều này đã có những tác động tích cực lên đồng Bảng. Tuy nhiên, tình thế thay đổi vào năm 1992 sau khi Vương quốc Anh bị buộc phải rút khỏi cơ chế tiền tệ Châu Âu. Phần lớn các nhà kinh tế học đều cho rằng thời kỳ giá trị đồng Bảng sụt giảm đã có tác động tích cực lên nền kinh tế Vương quốc Anh.

Đồng Bảng Anh đáng ra đã trở thành một phần của đồng tiền chung Châu Âu – Euro vào năm 2000, nhưng thông qua một cuộc trưng cầu dân ý, người dân của quốc gia này đã cực lực phản đối việc đó. Trong suốt thời gian dài, đồng Bảng và đồng Euro đã được quy đổi ngang giá, song tình thế đã thay đổi vào năm 2006. Lạm phát gia tăng tại Anh quốc đã buộc ngân hàng trung ương của nước này tăng lãi suất cơ bản dẫn đến sự chênh lệch lãi suất giữa đồng Bảng và đồng Euro. Diễn biến này rất có lợi cho đồng Bảng so với đồng euro và đô-la. Giá của đồng Bảng đã chạm mức 2 đô-la lần đầu tiên vào ngày 18 tháng Tư năm 2007, và vào tháng Mười Một năm 2007, nó chạm mức ấn tượng 2.1161 đô-la lần đầu tiên trong vòng 27 năm. Tuy nhiên, cuộc khủng khoảng trên thị trường bất động sản tại Mỹ năm 2007 đã gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế Anh, điều này có thể thấy rõ nhất qua việc sụt giảm giá trị của đồng Bảng.

Franc Thụy Sỹ (CHF)

Thụy Sỹ là nền kinh tế phát triển duy nhất ở Châu Âu không nằm trong Cơ chế đồng tiền chung Châu Âu hay Nhóm tám nền kinh tế lớn nhất châu lục này (the Big Eight). Mặc dù quy mô nền kinh tế Thụy Sỹ không lớn, đồng Franc của nước này vẫn là một trong bốn đồng tiền chính của thế giới, trước hết là bởi hệ thống tài chính ngân hàng đặc thù tại đây.

Trong những giai đoạn bất ổn chính trị, các nhà đầu tư vẫn thường lựa chọn đầu tư vào đồng Franc Thụy Sỹ thay vì đồng euro, mặc dù lãi suất đồng Franc gần như ngang bằng so với lãi suất đồng euro. Cặp EUR/CHF đã duy trì tỷ giá ổn định quanh mức 1.55 từ giữa năm 2003 đến 2006. Nhưng kể từ giữa năm 2006, do những nguyên nhân có liên quan đến tình hình kinh tế vĩ mô, Đồng Franc đã tăng giá trị rất nhiều so với đồng euro.

Chính vai trò truyền thống của một đồng tiền an toàn, không bị tác động bởi các biến động thị trường đã khiến đồng Franc Thụy Sỹ có độ tin cậy rất cao. Thụy Sỹ cũng là nước luôn có tỷ lệ lạm phát thấp hơn so với phần còn lại của Châu Âu. Cũng cần lưu ý rằng luật pháp Thụy Sỹ quy định 40% giá trị đồng tiền cần được đảm bảo bằng vàng dự trữ quốc gia mặc dù chế độ bản vị vàng, ra đời từ năm 1920, đã trở nên hoàn toàn vô hiệu vào ngày 1tháng Năm năm 2000.
 

AMcenter

New Member
4. NHỮNG THÀNH PHẦN CƠ BẢN THAM GIA THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI?

Các ngân hàng trung ương

Các ngân hàng trung ương tạo thành một nhóm riêng biệt trong số các thành phần tham gia vào thị trường Ngoại hối. Chức năng của họ là phát hành tiền, quản lý nền kinh tế và đảm bảo sự ổn định của đồng tiền quốc gia, qua đó đảm bảo sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, một trong những chức năng quan trọng khác của một ngân hàng trung ương trong một nền kinh tế thị trường là đảm bảo ổn định giá cả và kiểm soát lạm phát. Trên đây là những lý do giải thích vì sao hành động của một ngân hàng trung ương của bất kỳ quốc gia nào cũng đều thu hút sự chú ý của những người tham gia vào thị trường Ngoại hối. Ngân hàng trung ương tác động tới thị trường Ngoại hối theo hai cách, trực tiếp thông qua việc can thiệp vào đồng tiền hoặc gián tiếp thông qua xác định lãi suất cơ bản. Ngân hàng trung ương có thể theo đuổi chính sách làm tăng hoặc làm giảm giá trị của đồng tiền quốc gia, tùy thuộc vào thực trạng của nền kinh tế và các yêu cầu về quản lý; đồng thời, có thể hành động độc lập hoặc hợp tác với các ngân hàng trung ương khác trong khi điều hành chính sách hối đoái hoặc tiến hành can thiệp trực tiếp vào đồng tiền của quốc gia mình. Việc kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng trung ương cung cấp ngoại tệ cho khu vực kinh tế nhà nước hoặc giúp thực hiện các giao dịch đặc thù của bộ máy chính phủ (ví dụ, khi chuyển đổi tiền, bán trái phiếu chính phủ, .v.v.), nó cũng mua và bán đồng nội tệ cho các ngân hàng thương mại.

Phương tiện quản lý chủ yếu của ngân hàng trung ương là lãi suất cơ bản. Lãi suất này chính là lãi suất mà ngân hàng trung ương cho các ngân hàng thương mại vay. Các ngân hàng thương mại cũng vay tiền của nhau theo lãi suất cơ bản (hoặc gần mức lãi suất này). Sự thay đổi lãi suất cơ bản cho phép điều chỉnh tình hình kinh tế của một quốc gia. Việc giảm lãi suất cơ bản sẽ khuyến khích đầu tư (chi phí đầu tư bằng vốn vay giảm) và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong khi đó, việc tăng lãi suất cơ bản lại giúp hạ nhiệt lạm phát. Lãi suất cao sẽ hạn chế giá cả tăng cao. Lãi suất cơ bản là phương tiện điều hành kinh tế hiệu quả nhất trong nền kinh tế thị trường.

Có một vài loại lãi suất do ngân hàng trung ương đặt ra, nhưng lãi suất cơ bản là chỉ số quan trọng nhất (Lãi suất điều hòa vốn dự trữ qua đêm của Fed – Fed’s Fund Rate tại Mỹ; lãi suất REPO tại Liên minh Châu Âu).

Việc các ngân hàng trung ương can thiệp trực tiếp vào tỷ giá đồng nội tệ rất hiếm khi xảy ra. Để làm được việc đó với mục đích làm tăng hay giảm giá trị của đồng nội tệ, ngân hàng trung ương trực tiếp tiến hành mua hoặc bán đồng nội tệ trên thị trường. Ngân hàng trung ương buộc phải làm vậy khi tỷ giá của đồng nội tệ vào thời điểm đó không phù hợp với tình hình kinh tế và nếu để kéo dài có thể gây tác động tiêu cực. Việc can thiệp có thể được tiến hành độc lập bởi một hoặc một vài ngân hàng trung ương kết hợp với nhau. Sự can thiệp đồng thời của nhiều ngân hàng trung ương phản ánh những biến động lớn về kinh tế, sự bất ổn về giá cả, những tin đồn trái ngược và tình trạng đáng lo ngại trên thị trường.

Việc can thiệp thường gây ra sự hoảng loạn và sợ hãi, nhưng đối với những tay chuyên nghiệp thì đây cũng có thể là cơ hội kiếm lời nhanh chóng và ít rủi ro. Các ngân hàng trung ương biết rằng yếu tố chính đảm bảo thành công của một chính sách can thiệp là nó phải nằm ngoài dự đoán (đó là lý do tại sao thông tin về những chính sách can thiệp trong tương lại thường được giấu kín), nhưng nó phải thể hiện tác động đáng kể lên tỷ giá hối đoái ngay sau khi được ban hành.

Một trong những hành động can thiệp lớn nhất trong lịch sử là của ngân hàng trung ương Châu Âu vào năm 2000- 2001 nhằm làm đồng euro tăng giá mạnh trở lại ngay khi nó đạt mức thấp kỉ lục 0.85 euro ăn 1 đô-la. Ngân hàng trung ương Nhật Bản cũng phải tìm đến giải pháp can thiệp trực tiếp vào năm 2004 khi cố gắng hạ tỷ giá vốn đang rất cao của đồng Yên Nhật, điều không hề có lợi đối với một nền kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu như Nhật Bản. Sự can thiệp được tiến hành trong vòng ba tháng kể từ khi đồng tiền này chạm mức 101 Yên ăn 1 đô-la.

Cục dự trữ Liên Bang Mỹ mà thực chất là một ngân hàng tư nhân (chắc nhiều người sẽ cảm thấy vô cùng kinh ngạc về điều này), là định chế có ảnh hưởng lớn nhất đối với thị trường Ngoại hối. Nó thể hiện những nguyên tắc căn bản của nền kinh tế Mỹ, trong đó khu vực tư nhân luôn nhận được sự hỗ trợ và bảo đảm từ phía chính phủ. Tuy nhiên, sự thực là hoạt động của nó được quy định rất chặt chẽ để trở thành công cụ hữu hiệu của chính phủ và lợi nhuận của nó đều được nộp vào ngân sách quốc gia.

Tất cả các ngân hàng trung ương trên thế giới đều có các chức năng tương tự nhau, tuy nhiên, vẫn có một vài trường hợp ngoại lệ. Điều quan trọng là chúng ta phải hiểu cơ chế ra quyết định liên quan đến các loại lãi suất cũng như dự đoán được quan điểm của những người đứng đầu các ngân hàng trung ương, .v.v. Chúng ta sẽ cùng khám phá hoạt động của 8 ngân hàng trung ương có ảnh hưởng nhất hiện nay.

Cục dự trữ Liên bang Mỹ

Cục dự trữ Liên bang Mỹ là ngân hàng trung ương có ảnh hưởng lớn nhất thế giới bởi trên 90% các hoạt động ngoại hối đều có liên quan tới các cặp ngoại tệ có đồng đô-la. Ủy ban Các thị trường mở Liên bang (FOMC – Federal Open Markets Committee) bao gồm 5 trong tổng số 12 vị chủ tịch của các Ngân hàng dự trữ Liên bang khu vực và 7 thành viên của Hội đồng thống đốc chính là cơ quan quyết định lãi suất của FED. Các cuộc họp của FOMC diễn ra 8 lần trong một năm theo lịch trình đã được quyết định từ trước. Quyết định về lãi suất và lý do khiến nó được thay đổi hoặc giữ nguyên được công bố sau khi cuộc họp diễn ra. Thường thì lý do lại được coi là quan trọng hơn bản thân quyết định về mức lãi suất vì nó cho phép người ta dự báo những thay đổi trong chính sách của FED trong tương lai cũng như những biến động lãi suất có thể xảy ra.

Mục tiêu chiến lược của Cục dự trữ Liên bang là đảm bảo tăng trưởng kinh tế và ổn định giá cả trong dài hạn. Theo luật Ngân hàng trung ương, hệ thống dự trữ Liên bang Hoa Kỳ chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Điều đó có nghĩa là ngân hàng này phải báo cáo các hoạt động của mình với Hạ viện, một phần của Quốc hội Hoa Kỳ, một lần một năm và với Ủy ban Ngân hàng quốc hội hai lần một năm. Tuy nhiên, Hội đồng thống đốc của cơ quan này là không thuộc quyền kiểm soát của Quốc hội, và như vậy là mối ràng buộc giữa nó và Quốc hội không hề chi phối hoạt động của nó. Ben Bernanke đã thay thế huyền thoại Alan Greenspan vào tháng Một năm 2006 và điều hành Cục dự trữ Liên bang từ đó đến nay. Người đứng đầu Cục dự trữ Liên Bang định kỳ báo cáo về tình hình kinh tế của đất nước cho Thượng viện. Sau khi FOMC nhóm họp và quyết định lãi suất của FED được công bố, chính nhân vật này sẽ là người đưa ra báo cáo đánh giá về tình hình kinh tế cũng như những hành động mà Cục dữ trữ Liên bang có thể sẽ thực hiện liên quan đến quá trình điều hành nền kinh tế. Hệ thống dự trữ Liên bang không sở hữu vàng hay ngoại tệ để đảm bảo cho các khoản vay hay các đợt phát hành tiền giấy của mình. Điều này có nghĩa là đồng đô-la sẽ chỉ có thể được dùng để đổi lấy đồng đô-la mà thôi. Toàn bộ các hoạt động hối đoái còn lại đều dựa trên thực tế là đồng đô-la Mỹ được chấp nhận như đồng tiền cơ bản của thế giới.

Ngân hàng trung ương Châu Âu

Ngân hàng trung ương Châu Âu, European Central Bank – ECB, được thành lập vào năm 1998. Ngân hàng trung ương Châu Âu ra đời thay thế cho Cơ quan tiền tệ Châu Âu (European Monetary Institute – EMI), tổ chức được thành lập nhằm chuẩn bị cho sự ra đời của đồng tiền chung Châu Âu vào năm 1999.

Mục tiêu chung của ECB là đảm bảo tăng trưởng kinh tế và duy trì sự ổn định giá cả của khu vực đồng Euro bằng cách đảm bảo tỷ lệ lạm phát dưới mức 2%. Tuy nhiên, Ngân hàng trung ương Châu Âu còn có một số đặc thù khác so với Hệ thống dự trữ Liên bang Hoa Kỳ. ECB kiểm soát tỷ lệ lạm phát để nó chỉ luôn ở gần mức 2% một năm, ngoài ra nó còn phải đảm bảo rằng đồng euro không trở nên quá mạnh nhằm tránh ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu bởi nền kinh tế của rất nhiều nước trong khu vực đồng Euro dựa chủ yếu vào hoạt động này.

Các quyết định liên quan tới chính sách tiền tệ, bao gồm quyết định mức lãi suất cơ bản, nằm trong tay Hội đồng thống đốc và Ban điều hành của ECB. Hội đồng thống đốc bao gồm sáu thành viên trong đó có Thống đốc và phó Thống đốc. Ban điều hành bao gồm các thành viên trong ban giám đốc và thống đốc của tất cả các ngân hàng trung ương của các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu. Theo thông lệ, bốn trong số sáu thành viên hội đồng thống đốc đều là đại diện của bốn ngân hàng trung ương lớn, bao gồm ngân hàng trung ương Pháp, Đức, Italy và Tây Ban Nha. Các cuộc hội họp diễn ra hai lần mỗi tuần, nhưng chúng thường diễn ra một cách hình thức và không đi đến quyết định nào. Cuộc họp quyết định mức lãi suất cơ bản diễn ra một lần mỗi tháng. Đây là một trong những sự kiện kinh tế quan trọng và thu hút sự chú ý theo dõi của tất cả các thành phần tham gia thị trường Ngoại hối. Sau khi nó kết thúc, một cuộc họp báo sẽ được tổ chức, thống đốc ECB khi đó sẽ giải thích cụ thể lý do cơ quan này đưa ra các quyết định về lãi suất, đồng thời dự báo tình hình chung cũng như các xu hướng của nền kinh tế các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu.

ECB theo đuổi chính sách tiền tệ bảo thủ. Việc lãi suất cơ bản của đồng euro thay đổi rất chậm trong lịch sử của nó đã chứng minh điều đó. Ví dụ, lãi suất cơ bản chỉ thay đổi có bốn lần trong suốt cuộc suy thoái kinh tế diễn ra vào năm 2001, và ECB đã phải hứng chịu rất nhiều lời chỉ trích từ phía các chuyên gia kinh tế vì việc đó. Cũng cần lưu ý rằng ECB không muốn việc công bố lãi suất cơ bản trở thành sự ngạc nhiên đối với công chúng; ngược lại, nó luôn muốn mọi người hiểu tính chất của những thay đổi trong tương lại trước khi tiến đến việc chính thức công bố những thay đổi này.

Trên 500 tỷ euro dự trữ bao gồm cả dự trữ vàng nằm dưới quyền kiểm soát của ECB. Cựu thống đốc Ngân hàng trung ương Pháp Jean-Claude Trichet đã thay thế đại diện của Đức Wim Duisenberg để trở thành Thống đốc đương nhiệm của Ngân hàng trung ương Châu Âu kể từ tháng Mười Một năm 2003.

Ngân hàng Anh

Mục tiêu chính của Ngân hàng Anh (Bank of England – BoE) là duy trì sự ổn định và sức mua của đồng nội tệ. Giá cả ổn định và niềm tin vào đồng nội tệ chính là hai tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự ổn định tiền tệ, Sự ổn định giá cả được đảm bảo bởi thực tế là tỷ giá do Ủy ban chính sách tiền tệ của Ngân hàng Anh quyết định, tùy theo mức độ lạm phát và chúng tăng theo các mức do chính phủ đặt ra. Tỷ lệ lạm phát có thể chấp nhận được là xấp xỉ 2%.

Ngân hàng Anh được điều hành bởi Hội đồng thống đốc bao gồm một thống đốc, hai phó thống đốc, và 16 giám đốc thành viên. Tất cả đều được bổ nhiệm bằng một Sắc lệnh Hoàng gia sau khi đã được xem xét thông qua. Thống đốc và hai phó thống đốc được có nhiệm kỳ là 5 năm, và các thành viên khác được có nhiệm kỳ là 3 năm. Tất cả đều có thể được bổ nhiệm lại nhiều lần sau khi kết thúc một nhiệm kỳ.

Hội đồng thống đốc phải nhóm họp ít nhất một lần một tháng. Việc quản lý hệ thống ngân hàng, trừ các vấn đề về chính sách tiền tệ đều thuộc phạm vi công việc của Hội đồng thống đốc. Ủy ban chính sách tiền tệ (Moneytary Policy Committee – MPC) chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ.

Thống đốc ngân hàng Anh cũng đồng thời là người đứng đầu ủy ban này. Các thành viên khác được chọn ra từ những nhà kinh tế học có danh tiếng chứ không phải nhân viên của Ngân hàng. Ủy ban chính sách tiền tệ chịu trách nhiệm xác định các mức lãi suất chính thức kể từ năm 1997.

Mervyn King hiện là thống đốc Ngân hàng Anh. Quyết định về mức lãi suất cơ bản được đưa ra thông qua việc công bố kết quả bỏ phiếu. Ví dụ, kết quả bỏ phiếu được công bố là 7:2 có nghĩa là 7 thành viên đồng ý thay đổi lãi suất cơ bản còn 2 thành viên còn lại không đồng ý. Kết quả bỏ phiếu cho thấy quan điểm của các thành viên Ủy ban. Sự thay đổi về tỷ lệ các thành viên ủng hộ và phản đối sẽ cho thấy xu hướng của những thay đổi lãi suất trong tương lai. Chính sách quản lý thành công của Ngân hàng trung ương Anh còn được được nhắc đến với cái tên Goldilocks (chỉ mọi thứ đều vừa và đủ) (ý nói các chính sách quản lý kinh tế cho phép tăng trưởng đều đặn cùng với tỷ lệ lạm phát thấp và môi trường kinh doanh thuận lợi). Đây chính là yếu tố quan trọng nhất đóng góp vào thành công của giai đoạn phát triển kinh tế ổn định bắt đầu từ năm 1993 đến nay – quãng thời gian dài nhất trong hai thế kỷ qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Vương quốc Anh đã bỏ xa các quốc gia thuộc khu vực đồng Euro trong suốt mười năm qua và một đồng bảng mạnh là minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó.

Ngân hàng trung ương Nhật Bản

Nền kinh tế Nhật Bản dựa rất nhiều vào xuất khẩu. Việc tỷ giá đồng nội tệ quá cao và vẫn tiếp tục tăng lên nhanh chóng là mối quan tâm rất lớn của quốc gia này bởi tác động tiêu cực của nó lên hoạt động xuất khẩu. Đó là lý do tại sao Ngân hàng trung ương Nhật Bản (Bank of Japan – BoJ) lại sử dụng chính sách can thiệp trực tiếp hết lần này đến lần khác để kiềm chế tỷ giá đồng yên (Ngân hàng này bán đồng yên ra thị trường để thu về đô-la Mỹ và euro). Ngân hàng Nhật Bản cũng thực hiện chính sách can thiệp thông qua các phát ngôn, các quan chức cấp cao của Nhật Bản luôn tuyên bố rằng đồng Yên đang có giá trị quá cao, và những tuyên bố như vậy luôn là một dấu hiệu rõ ràng đối với các định chế và cá nhân tham gia thị trường Ngoại hối. Sự can thiệp bằng phát ngôn của các quan chức, dù không đi đôi với hành động nhưng cũng có ảnh hưởng rất lớn tới thị trường.

Chừng nào điều lệ của Ngân hàng trung ương Nhật Bản còn ghi rõ rằng nó cần phải đảm bảo sự ổn định giá cả cũng như toàn bộ hệ thống tài chính, mục tiêu chính của nó vẫn sẽ là giảm lạm phát. Cuộc khủng hoảng bất động sản những năm 1990 đã buộc Ngân hàng này phải cắt giảm lãi suất cơ bản tới mức thấp kỉ lục 0.15%. Đây chính là chính sách vẫn thường được gọi là lãi suất bằng không mà Ngân hàng Nhật Bản vẫn theo đuổi cho tới nay. Người ta tin rằng Nhật Bản sẽ từ bỏ chính sách lãi suất bằng không này ngay khi nền kinh tế Nhật Bản khôi phục lại được tốc độ tăng trưởng bình thường. Chính sách lãi suất bằng không đã tiếp diễn trong năm năm liên tục, nhưng vào tháng Ba năm 2006, nó tăng lên 0.5%. Ủy ban chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương Nhật Bản bao gồm 6 thành viên, không kể Thống đốc Masaaki Shiraka và hai phó Thống đốc, nhóm họp một hoặc hai lần mỗi tháng.

Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ

Không giống các Ngân hàng trung ương khác, Ngân hàng quốc gia Thụy Sĩ (SNB) đặt ra một giới hạn trong đó lãi suất cơ bản có thể biến động trong từng trường hợp cụ thể thay vì đưa ra một mức lãi suất cố định. Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ theo đuổi chính sách bảo thủ đối với vấn đề tăng lãi suất do nền kinh tế Thụy Sĩ phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu (đồng nội tệ mạnh không có lợi cho các nhà xuất khẩu). Mục tiêu chính thức của Ngân hàng này là đảm bảo ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế. Thống đốc Ngân hàng hiện tại là Jean-Pierre Roth. Hội đồng điều hành của Ngân hàng gặp nhau một lần mỗi quý để thảo luận về chính sách tiền tệ.

Ngân hàng trung ương Canada

Ban giám đốc của Ngân hàng trung ương Canada, Board of Directors – BoC, bao gồm Thống đốc David Dodge và năm phó Thống đốc. Các nhân vật này nhóm họp tám lần một năm để thảo luận và đưa ra quyết định liệu có thay đổi chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương hay không. Năm 1998, Ngân hàng này đặt mục tiêu đảm bảo lạm phát ở trong khoảng từ 1 đến 3% đồng thời đảm bảo sự ổn định của đồng nội tệ. Điều này có nghĩa là tỷ lệ lạm phát cao hay thấp hơn mục tiêu đề ra sẽ dẫn tới việc tăng hoặc giảm lãi suất cơ bản.

Ngân hàng dự trữ Australia

Không giống các ngân hàng trung ương khác, mục tiêu của Ngân hàng trung ương Australia, Reserve Bank of Australia – RBA bao gồm nhiều nội dung hơn, đó là đảm bảo sự ổn định của đồng nội tệ, việc làm đầy đủ cho công dân, tăng trưởng kinh tế, và đảm bảo sự thịnh vượng về mặt kinh tế của quốc gia. Để đạt được các mục tiêu đó, Ngân hàng này kiểm soát tỷ lệ lạm phát trong khoảng 2-3%.

Ủy ban chính sách tiền tệ của Ngân hàng dự trữ Australia bao gồm thống đốc Ngân hàng Glen Steevens, Phó thống đốc, Bộ trưởng bộ Tài chính (tương đối khác biệt và không phải thông lệ tại các quốc gia khác) và sáu thành viên đại diện cho phe đa số trong Quốc hội do Chính phủ chỉ định. Ủy ban này nhóm họp 11 lần một năm (vào thứ Ba đầu tiên hàng tháng trừ tháng Một)

Ngân hàng dự trữ New Zealand

Không giống các ngân hàng trung ương khác, quyết định về lãi suất cơ bản tại Ngân hàng dự trữ New Zealand do một mình thống đốc đưa ra chứ không phải là quyết định của tập thể. Thống đốc hiện thời của Ngân hàng này là Alan Bollard. Tuy nhiên, bản thân quyết định này được đưa ra sau cuộc họp của Ban điều hành. Cơ quan này nhóm họp 8 lần một năm. Mục tiêu của Ngân hàng là đảm bảo tỷ lệ lạm phát trong giới hạn 1.5%. Đó là lý do vì sao trong suốt thời kì nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, Ngân hàng này buộc phải tăng lãi suất cơ bản lên mức 8.25%. Việc này giúp kiềm chế tỷ lệ lạm phát ở một mức độ nhất định và cắt giảm thâm hụt tài khoản vãng lai, tuy nhiên, việc này cũng làm tỷ giá đô-la New Zealand tăng nhanh do sự khác biệt về lãi suất và hoạt động đầu cơ chênh lệch lãi suất (carry trade).

Rõ ràng, mục tiêu chính của mỗi ngân hàng trung ương là kiềm chế lạm phát ở một giới hạn đã định trước. Nếu nó vượt quá giới hạn ngân hàng trung ương sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ và nâng lãi suất cơ bản lên, còn nếu tỷ lệ lạm phát thấp, điều thường xảy ra vào các thời kì kinh tế bị đình trệ, ngân hàng trung ương sẽ giảm lãi suất để kích thích đầu tư và phát triển kinh tế.

Các quỹ đầu tư

Rất nhiều tổ chức, công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu và các quỹ đầu tư bảo hiểm rủi ro tham gia vào hoạt động đầu tư và đầu cơ theo nhiều cách khác nhau trên thị trường Ngoại hối. Ví dụ, quỹ Quantum của tỷ phú George Soros là một trong những quỹ đầu tư năng động nhất trên thị trường này. Các tổ chức này cũng bao gồm cả các tập đoàn quốc tế thường đầu tư vào nhiều quốc gia khác nhau bằng cách thành lập chi nhánh, công ty con hay mở rộng sản xuất ra ngoài lãnh thổ một quốc gia, v.v)

Các ngân hàng thương mại

Thực tế, việc xử lý tất cả các giao dịch ngoại hối đều được thực hiện bởi các ngân hàng thương mại. Điều này giải thích lý do vì sao ta gọi thị trường Ngoại hối là thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Các thành phần tham gia vào thị trường đều tương tác với nhau thông qua ngân hàng theo cách này hay cách khác. Phần lớn các tổ chức thanh toán bù trừ đều là chính các ngân hàng hoặc chi nhánh của chúng. Các ngân hàng quốc tế như Citibank, Barclays Bank, Deutsche Bank, Union Bank of Switzerland và nhiều cái tên khác nữa xử lý các giao dịch trị giá hàng trăm triệu đô-la mỗi ngày. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng thực hiện các giao dịch ngoại hối vì lợi nhuận của chính mình. Các nhân viên thuộc bộ phận chuyên trách của ngân hàng theo dõi các xu hướng của thị trường, đưa ra dự báo và quản lý trạng thái ngoại tệ của ngân hàng mình. Dù các ngân hàng đều có chính sách quản lý rủi ro rất chặt chẽ, họ vẫn tham gia vào các hoạt động đầu cơ ngoại tệ


10 định chế hàng đầu tham gia thị trường Ngoại hối năm 2006

(Nguồn: Điều tra của Euromoney FX)

Xếp hạng

Ngân hàng

Tỷ lệ tham gia (%)

1.

Deutsche Bank

19.26

2.

UBS AG

11.86

3.

Citigroup

10.39

4.

Barclays Capital

6.61

5.

Royal Bank of Scotland

6.43

6.

Goldman Sachs

5.25

7.

HSBC

5.04

8.

Bank of America

3.97

9.

JPMorgan Chase

3.89

10.

Merrill Lynch

3.68

Các nhà môi giới (Brokers)

Chức năng của các nhà môi giới là cung cấp cho khách hàng của họ cơ hội giao dịch trên thị trường Ngoại hối, ví dụ như đảm bảo việc thực hiện lệnh nhanh chóng và chính xác một cặp tiền tệ nào đó theo giá thị trường. Một công ty môi giới không giao dịch để thu lợi nhuận trực tiếp cho mình bởi nó chỉ là đơn vị trung gian, không chịu các rủi ro về thay đổi tỷ giá. Nó tìm kiếm lợi nhuận nhờ chênh lệch giữa giá mua và giá bán (spread). Hiện nay trên thị trường có rất nhiều công ty môi giới, việc cạnh tranh giữa họ với nhau góp phần làm tăng chất lượng dịch vụ cung cấp cho các nhà đầu tư (chương “Làm thế nào để chọn nhà môi giới? sẽ làm rõ điều này)

Các nhà đầu tư cá nhân

Các nhà đầu tư vừa và nhỏ không thể trực tiếp tham gia thị trường Ngoại hối mặc dù trên thực tế họ có thể dùng đòn bẩy với tỷ lệ rất cao (1:50, 1:100 hoặc hơn nữa). Tất cả hoạt động của họ đều được thực hiện thông qua các ngân hàng và các nhà môi giới, những tổ chức này lại là khách hàng của các tổ chức thanh toán bù trừ. Các nhà đầu tư cá nhân luôn phải giao dịch thông qua trung gian.
:146:
 

AMcenter

New Member
5. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT TRƯỚC KHI BẮT ĐẦU GIAO DỊCH

Để bắt đầu giao dịch Ngoại hối, bạn cần cài đặt một phần mềm đặc biệt, một nền tảng giao dịch (trading platform). Chính xác hơn thì một nền tảng giao dịch là một gói phần mềm bao gồm một máy chủ (do nhà môi giới sử dụng) và một chương trình giao dịch dành cho khách hàng (được cài đặt vào máy tính của khách hàng). Chương trình của khách hàng trao đổi thông tin với máy chủ thông qua mạng Internet và nhận tất cả các dữ liệu cần thiết phục vụ việc giao dịch như tỷ giá, tin tức thị trường, số dư tài khoản giao dịch. Thông thường khách hàng được cung cấp phần mềm giao dịch miễn phí. Do đó để bắt đầu giao dịch bạn chỉ cần làm những việc sau đây:

1. Chọn một nhà môi giới, ký hợp đồng và mở tài khoản giao dịch cá nhân, 2. Chuyển tiền (số tiền ký quỹ ban đầu) vào tài khoản của nhà môi giới để nhà môi giới chuyển số tiền này vào tài khoản của bạn, 3. Giao dịch trên các thị trường tài chính, quản lý tài khoản và đầu tư vốn thông qua các phần mềm giao dịch.

Tuy nhiên, trước khi bắt đầu, bạn cần phải làm quen với các thuật ngữ và khái niệm cơ bản của thị trường Ngoại hối. Hàng loạt các từ lóng hay các chữ viết tắt có ý nghĩa gì?

Kinh doanh Ngoại hối, FX, có nghĩa là mua một loại tiền tệ và bán một loại tiền tệ khác tại một thời điểm xác định (ngày giá trị).

Để giao dịch, chúng ta cần có một đơn vị tính. Dầu hỏa được mua bán theo thùng (barrels), lúa gạo được tính theo giạ (bushels) còn tiền tệ thì được tính theo lô.

Trong giao dịch tiền tệ, một lô tiêu chuẩn tương đương 100.000 đơn vị đồng tiền định giá.

Theo SWIFT (Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu), tỷ giá thanh toán liên ngân hàng quốc tế được thể hiện như sau: đồng tiền định giá/đồng tiền yết giá, nghĩa là một đơn vị của đồng tiền định giá được thể hiện bằng một lượng nhất định của đồng tiền yết giá. Ví dụ, trong cặp tiền tệ EUR/USD, EUR (tiêu chuẩn ISO về mã tiền tệ) là đồng tiền định giá và một lô tương đương với 100.000 euro. Rất nhiều nhà môi giới cho phép khách hàng của mình giao dịch lô nhỏ (0,1 lô tiêu chuẩn) và lô siêu nhỏ (0,01 lô tiêu chuẩn). Tỷ giá hối đoái là một đơn vị của đồng tiền này được biểu diễn bằng một số đơn vị tương ứng của một đồng tiền khác.

Các giao dịch tài chính bao gồm hai loại chính, mua và bán, vì thế tỷ giá niêm yết cũng có hai loại, giá bán là giá mà tại đó khách hàng có thể lựa chọn mua một đồng tiền định giá và giá mua là giá mà tại đó khách hàng có thể lựa chọn bán đồng tiền định giá để đổi lấy đồng tiền yết giá.

Giá bán là giá mà tại đó một nhà kinh doanh có thể chọn mua một đồng tiền định giá.

Giá mua là giá mà tại đó một nhà kinh doanh có thể lựa chọn bán một đồng tiền định giá.

Có một điều chắc chắn là giá bán luôn cao hơn giá mua. Sự khác nhau giữa hai mức giá này được gọi là khoảng chênh lệch (spread) cũng đồng thời là mức phí mà nhà môi giới thu được thông qua việc thực hiện các giao dịch Ngoại hối cho khách hàng của mình. Thông thường, khoảng chênh lệch của các cặp tiền tệ cơ bản bao giờ cũng ở mức thấp nhất, khoảng từ 2 đến 8 điểm phần trăm cơ bản (1 điểm phần trăm cơ bản tương đương 1% của 1%) (ví dụ, rất nhiều nhà môi giới đưa ra khoảng chênh lệch 0,0002 cho cặp EUR/USD).

Khoảng chênh lệch là phần khác nhau giữa giá bán và giá mua, được thể hiện bằng điểm phần trăm (point).

Thay đổi nhỏ nhất trong tỷ giá của một cặp tiền tệ tùy thuộc vào độ chính xác của chính tỷ giá đó, tức là số con số thập phân được viết ra, thông thường, nó là sự thay đổi của số thập phân cuối cùng – tương đương 0.0001 đơn vị đồng tiền cơ sở.

Điểm phần trăm (Point hay Pips) là sự thay đổi nhỏ nhất trong tỷ giá của một cặp tiền tệ. Một điểm thường tương đương 0,0001 đơn vị đồng tiền cơ sở. Đối với một vài loại tiền tệ, ví dụ như đồng Yên Nhật, một điểm tương đương 0,01 đơn vị. 100 điểm tròn thường được gọi theo thuật ngữ tiếng Anh gọi là figure hay big figure.

Ví dụ, tỷ giá hối đoái của cặp tiền tệ EUR/USD tại một thời điểm xác định là 1,3640/1,3642, điều này có nghĩa là:

1) Một khách hàng có thể lựa chọnmua euro với giá bán (ask price) là 1,3642 đô-la Mỹ một euro; 2) Một khách hàng có thể lựa chọn bán euro với giá mua (bid price) là 1,3640 đô-la Mỹmột euro; Sau khi đã làm quen với các thuật ngữ giao dịch, chúng ta chuyển sang quy trình giao dịch: Có hai loại lệnh mua hoặc bán một đồng tiền nào đó. Một khách hàng có thể đặt lệnh mở hoặc đóng trạng thái giao dịch của mình với giá thị trường tại một thời điểm xác định nào đó. Ngoài ra còn có lệnh cắt lỗ (stoploss orders) và lệnh giới hạn (limit orders), gọi chung là các lệnh chờ (pending orders). Đây là những loại lệnh cho phép thực hiện giao dịch mua hay bán tự động tại một mức giá xác định cao hơn hoặc thấp hơn giá thị trường tại thời điểm đặt lệnh. Kết quả là, cứ khi nào giá thị trường chạm mức giá của lệnh chờ thì nhà môi giới sẽ tự động mở hoặc đóng trạng thái của khách hàng bằng cách thực hiện lệnh mua hoặc bán.

Ví dụ, bạn mua một ngoại tệ nào đó, sau một thời gian nhất định, bạn có thể bán chúng hoặc với giá cao hơn giá mua và thu lợi nhuận; hoặc với giá thấp hơn giá mua và bị lỗ. Như vậy, thực ra nghệ thuật kinh doanh là ở chỗ chọn được đúng thời điểm để mua hay bán. Chúng ta sẽ đi sâu vào vấn đề này sau, nhưng để làm quen với khái niệm lệnh chờ,chúng ta sẽ tìm hiểu về quy trình giao dịch tự động. Để mở một trạng thái, bạn cần thực hiện lệnh bán hoặc mua một loại ngoại tệ, như vậy, để đóng trạng thái đó bạn sẽ cần thực hiện lệnh ngược lại là bán hoặc mua ngoại tệ đó. Nếu bạn mở một trạng thái bằng việc mua một ngoại tệ thì bạn sẽ đóng trạng thái đó bằng cách bán chúng đi. Nếu bạn mở một trạng thái bằng việc bán một ngoại tệ thì tương tự, bạn sẽ đóng trạng thái đó bằng việc mua lại ngoại tệ đó. Một lệnh giao dịch có thể được thực hiện với giá thị trường hoặc tại một mức giá xác định trong tương lai (lệnh chờ).

Giá giao ngay là giá mà một ngoạitệ được mua hoặc bán tại thời điểm đặt lệnh theo giá thị trường tại thời điểmđó.

Bạn có thể đặt một Lệnh cắt lỗ(Stop Loss order) để hạn chế khả năng thua lỗ và một lệnh chốt lời (Take Profitorder) để thu lợi nhuận. Ngoài ra, cáclệnh giao dịch có thể được khách hàng gửi cho nhà môi giới thông qua các phần mềmgiao dịch được tạo ra bằng ngôn ngữ lập trình. Phần mềm MetaTrader4 bao gồmchương trình giao dịch tự động được tạo ra bằng ngôn ngữ lập trình MQL4, thườngđược gọi là Expert Advisors (Người chỉ dẫn chuyên nghiệp). Giao dịch với ExpertAdvisors viết tắt là EA đòi hỏi nhà kinhdoanh phải hiểu được chiến lược cũng như các chi tiết kỹ thuật trong giao dịch.

Lệnh cắt lỗ (Stop Loss Order) là lệnh đóng một trạng thái giao dịch tại một mức giá định trước khi nó đang ở tình trạng lỗ với mục đích tránh thua lỗ lớn hơn.

Lệnh cắt lỗ sẽ được thực hiện ngay khi giá thị trường giảm tới mức giá mà nhà kinh doanh đã định trước. Phần lớn các nhà môi giới thực hiện Lệnh cắt lỗ ở đúng mức giá đã được định trước. Tuy nhiên, một vài nhà môi giới cũng gặp phải rủi ro không khớp được lệnh ở đúng mức giá yêu cầu trong khi chuyển lệnh của khách hàng ra thị trường do thanh khoản trên thị trường thấp hoặc giá cả biến động quá nhanh. Bởi vậy một vài nhà môi giới đặt ra điều kiện là các lệnh cắt lỗ có thể sẽ được thực hiện ở mức giá định trước hoặc một mức gần nhất có thể. Trong trường hợp này giá thực hiện có thể khác biệt một vài điểm, thậm chí vài chục điểm, tuy nhiên các nhà môi giới vẫn có cái lý của mình. Trong một thị trường có khả năng biến động nhanh chóng, các nhà môi giới thường bảo lưu quyền không thực hiện các lệnh chờ trong trường hợp giá thị trường chạm mức giá của lệnh chờ trong thời gian quá ngắn hoặc không có khả năng thực hiện được lệnh. Khi lựa chọn nhà môi giới, bạn nên tìm hiểu xem họ sẽ hành động thế nào trong những trường hợp như thế. Điều này rất dễ nhận ra khi bạn bắt đầu thử nghiệm một phần mềm giao dịch. Tất nhiên, nhà môi giới có quyền không thực hiện các lệnh không có mức giá phù hợp trên thị trường. Tuy nhiên, bạn vẫn nên chắc chắn rằng nhà môi giới không lạm dụng quyền của mình.Những biến động lớn trong đó giá cả thay đổi vài chục điểm thường là lý do khách quan của việc không thực hiện lệnh. Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm khi xảy ra. Thường thì thị trường có tính thanh khoản rất tốt và không gây ra vấn đề gì trong việc thực hiện giao dịch.

Rất nhiều nhà kinh doanh không đặt các lệnh cắt lỗ và chốt lời mà muốn đưa ra quyết định tùy theo diễn biến của thị trường, hoặc có đặt lệnh song lại sửa các lệnh đã đặt tùy theo biến động của giá cả. Chắc chắn là các lệnh cắt lỗ và chốt lời tại các mức giá định sẵn là phương pháp an toàn nhất. Nhưng tâm lý của con người luôn mong muốn giá cả sẽ biến động theo chiều hướng có lợi, và khi đã có lợi rồi người ta lại mong muốn nó sẽ diễn tiến có lợi hơn nữa. Bởi vậy người ta luôn muốn đẩy giá của các lệnh cắt lỗ ra mức càng xa càng tốt và chốt lời ngay lập tức mà không cần đợi thêm các diễn biến của thị trường, cho dù đó là diễn biến tích cực. Bên cạnh đó, khó mà biết được cắt lỗ ở mức nào là hợp lý bởi thị trường thường diễn biến không ổn định.

Bạn sẽ phải cố đưa ra một cái giá và vì vậy có thể bỏ lỡ xu hướng nào đó của thị trường và gánh chịu mức thua lỗ cao hơn. Đó là lý do tại sao chúng ta nên yêu cầu nhà môi giới thực hiện lệnh tại một mức giá định trước. Nhìn chung, một lệnh cắt lỗ sẽ cho phép hạn chế thua lỗ thêm do những biến động giá cả theo chiều hướng xấu và không lường trước được. Thường thì nhà kinh doanh có thể dự đoán được giới hạn của một biến động giá thông thường nhờ các phân tích cơ bản và kỹ thuật. Tuynhiên việc thay đổi tỷ giá lớn và nhanh chóng có thể vượt ra ngoài giới hạn đãdự báo trước. Một lệnh cắt lỗ ở mức giá nằm ngoài giới hạn thay đổi giá cả được dự báo là một cách tránh khỏi những khoản thua lỗ lớn. Lệnh cắt lỗ này sẽ trả lời cho câu hỏi “Điều gì sẽ xảy ra trongtrường hợp thị trường diễn biến xấu?” Những người mới kinh doanh có xu hướng không mấy quan tâm đến các lệnh cắt lỗ mà chỉ nghĩ đến lợi nhuận. Nhưng rồi họ sẽ sớm nhận ra rằng không thể có lợi nhuận nếu không quản lý được rủi ro. Lệnh cắt lỗ là một công cụquản lý rủi ro hữu hiệu khi một trạng thái giao dịch bất kỳ đã được mở.

Lệnh chốt lời là lệnh đóng một trạng thái giao dịch để tìm kiếm lợi nhuận tại một mức giá định trước.

Lệnh chốt lời được dùng để hiện thực hóa lợi nhuận, nhưng cũng đồng thời giới hạn nó ở một mức định trước. Vậy tại sao lại phải giới hạn lợi nhuận? Sao không để nó tăng lên nữa! Tỷ giá cũng như các chiều hướng của thị trường thay đổi liên tục, và lợi nhuận ẩn chứa trong một trạng thái giao dịch mở sớm hay muộn cũng sẽ biến thành thua lỗ. Đó là lý do tại sao nhà kinh doanh sử dụng các lệnh chốt lời. Điều kiện để kinh doanh Ngoại hối là gì? Bạn cần có một khoản tiền ký quỹ trong tài khoản để bảo đảm cho các giao dịch bởi giao dịch Ngoại hối là giao dịch ký quỹ (margin trading).

Để đảm bảo rủi ro của nhà Khoản tiền ký quỹ sẽ đảm bảo cho những thua lỗ có thể xảy ra trong khi bạn giao dịch theo hình thức ký quỹ. Sẽ là hoàn toàn hợp lý khi khách hàng phải ký quỹ môi giớikhi mở trạng thái giao dịch cho họ. Mức độ ký quỹ phụ thuộc vào đòn bẩy do nhà môi giới cung cấp, độ lớn của lô giao dịch và cặp tiền tệ liên quan.

Thua lỗ có thể được hạn chế nhờ có số tiền ký quỹ. Một cảnh báo thiếu ký quỹ (Margin Call) là mức độ (tỷ lệ % của tổng số tiền ký quỹ trong tài khoản của bạn) mà nếu mức độ thua lỗ của bạn đạt tới đó thì nhà môi giới buộc phải đóng trạng thái giao dịch của bạn theo giá thị trường. Việc không có đủ tiền trên tài khoản giao dịch sẽ dẫn đến việc bạn bị đóng một hoặc một vài trạng thái giao dịch. Các nhà môi giới thường đặt ra các mức độ cảnh báo thiếu kỹ quỹ khác nhau từ 10% đến 30%, thậm chí là 100%. Nhưng thường thì nó ở mức 30% - 50%. Để tránh bị buộc phải đóng một trạng thái giao dịch đang mở, bạn cần tính toán những rủi ro có thể xảy ra. Nói một cách đơn giản, bạn nên mở các trạng thái với số lượng tương ứng với số dư mà bạn có trên tài khoản giao dịch. Bạn nên cố gắng đóng trạng thái đang ẩn chứa lợi nhuận hay thua lỗ theo một chiến lược quản lý rủi ro của riêng mình. Bạn cũng có thể tăng thêm số dư trong tài khoản để tăng phần tài sản của bạn lên trong trường hợp một cảnh báo thiếu ký quỹ đang tới gần, nhưng đây chỉ nên là biện pháp cuối cùng mà thôi.

Đòn bẩy là tỷ lệ giữa vốn tự có của nhà đầu tư và vốn do nhà môi giới cung cấp cho nhà đầu tư đó tự quản lý. Tỷ lệ đòn bẩy 1:100 có nghĩa là nhà đầu tư có thể thực hiện giao dịch với một số tiền nhỏ hơn 100 lần so với giá trị thực của giao dịch đó.

Giờ thì bạn đã hiểu các điều kiện giao dịch và có thể mở một trạng thái giao dịch đầu tiên trên thị trường Ngoại hối, tức là mua hay bán một số lượng nhất định một ngoại tệ cơ sở nào đó (hoặc tạo thêm một lệnh chờ để nhà môi giới tự động thực hiện nó cho bạn khi giá thị trường đạt tới mức giá đã định trước của lệnh chờ đó). Khi đã mở một trạng thái giao dịch, số dư trên tài khoản giao dịch của bạn sẽ được tự động ghi lại trên hệ thống và xuất hiện trên giao diện giao dịch của bạn. Nó sẽ thay đổi mỗi khicó sự thay đổi tỷ giá. Nhà môi giới sẽ quản lý tài khoản của bạn để giữ mức ký quỹ hợp lý.

Số dư (Balance) là số tiền trên tài khoản của khách hàng tại một thời điểm nào đó trong đó bao gồm số tiền đã nộp và kết quả của các trạng thái giao dịch đã được đóng (đã hiện thực hóa lợi nhuận hoặc thua lỗ).

Số dư = Tài sản + lợi nhuận haythua lỗ đã thực hiện (đối với các trạng thái giao dịch đóng)

Ký quỹ tự do (Free margin) là sốtiền trên tài khoản của khách hàng chưa được sử dụng làm đảm bảo và còn có thể được dùng để đảm bảo cho một trạng thái đang mở hoặc mở một trạng thái mới.

Tài sản = Số tiền ký quỹ + số tiền ký quỹ tự do + lãi hoặc lỗ hiện tại

Số dư tại một thời điểm thấp hơn tài sản tại thời điểm đó có nghĩa là các trạng thái hiện tại đang có lãi, và ngược lại, nếu số dư cao hơn tài sản thì có nghĩa là các trạng thái hiện tại đang phải chịu lỗ. Trong giao dịch Ngoại hối, việc thực hiện các tính toán trên là không cần thiết bởi tất cả các thông tin đều được cung cấp trên màn hình giao dịch, tuy nhiên, chúng ta cần hiểu các nguyên tắc tính toán và ý nghĩa của các tham số đó.

Gọi ký quỹ (Margin Call) là nghiệpvụ trong đó nhà môi giới buộc phải đóng các trạng thái giao dịch của khách hàngdo số tiền ký quỹ còn lại của anh ta đã giảm xuống dưới mức Gọi ký quỹ mà nhà môi giới đó quy định.

Mức gọi ký quỹ (Margin Call level) được xác định dựa trên công thức toán học. Bạn nên cố gắng tránh tình trạng nhà môi giới phải Gọi ký quỹ đối với tài khoản của bạn bằng cách chuẩn bị phương án ra khỏi thị trường trong trường hợp một sự kiện bất lợi nào đó xảy ra. Khoảng lệnh dừng (trailing stop) là gì?

Khoảng lệnh dừng là một tham số được thể hiện bằng đơn vị điểm, được nhà kinh doanh đặt ra để lệnh cắt lỗ của anh ta tự động di chuyển một khoảng tương ứng khi tỷ giá liên quan đến một trạng thái giao dịch đã được mở của anh ta biến động theo chiều hướng có lợi. Tác dụng của nó là khiến một trạng thái giao dịch được đóng lại theo một thuật toán đặc biệt trong đó nếu giá thay đổi theo chiều hướng có lợi thì lệnh cắt lỗ sẽ tự động dịch chuyển một số điểm nhất định theo chiều hướng có lợi đó. Việc tính toán này sẽ được thực hiện trên phần mềm giao dịch của nhà kinh doanh. Khoảng lệnh dừng xác định một thời điểm đóng trạng thái giao dịch theo quy luật sau: 1. Nếu lợi nhuận tính bằng điểm của một trạng thái giao dịch mở đạt khoảng lệnh dừng cho trước, nhà môi giới sẽ nhận được lệnh dịch chuyển mức giá của điểm cắt lỗ đến vị trí mà tại đó trạng thái giao dịch đã được mở (nó tạo ra trạng thái hòa vốn cho nhà kinh doanh kể cả khi thị trường có biến động theo chiều hướng ngược lại trong tương lai).

2. Ngay khi lợi nhuận tính bằng điểm vượt qua khoảng lệnh dừng nhà môi giới sẽ nhận được lệnh dịch chuyển điểm cắt lỗ một khoảng đúng bằng khoảng chênh lệch giữa giá thị trường tại thời điểm đó và giá đã tính thêm khoảng lệnh dừng. Trong một lệnh Mua, khoảng lệnh dừng được đặt dưới giá giao dịch, còn với một lệnh Bán, khoảng lệnh dừng sẽ được đặt trên giá giao dịch.

3. Điểm cắt lỗ chỉ dịch chuyển cùng chiều với xu hướng tăng của lợi nhuận. Khi thị trường biến động theo chiều hướng ngược lại,điểm cắt lỗ vẫn sẽ đứng yên ở điểm cuối cùng mà nó dịch chuyển tới, có nghĩa là nếu thị trường chuyển biến theo chiều hướng bất lợi thì đến khi giá chạm mức tương đương với mức giá của khoảng lệnh dừng lệnh cắt lỗ sẽ được kích hoạt và nhà kinh doanh sẽ hoặc là thu được lợi nhuận hoặc hòa vốn.

Nói một cách đơn giản, giá tăng sẽ kéo điểm cắt lỗ đi theo, và lệnh cắt lỗ khi đó sẽ bảo toàn lợi nhuận thu được trong trường hợp thị trường diễn biến theo chiều hướng bất lợi trở lại. Tham số khoảng lệnh dừng được cài đặt trong phần mềm giao dịch Metatrader 4.0 (đây là một lựa chọn tiêu chuẩn kèm theo phần mềm này). Nên nhớ rằng một khoảng lệnh dừng sẽ chỉ hoạt động (kéo điểm cắt lỗ theo chiều hướng của lợi nhuận) khi phần mềm giao dịch của bạn ở trạng thái hoạt động bởi lệnh dịch chuyển điểm cắt lỗ được chuyển trực tiếp từ phần mềm trên máy tính của khách hàng. Chỉ nên sử dụng khoảng lệnh dừng nếu các trạng thái giao dịch còn mở của bạn đang có lãi và thị trường có xu hướng tiếp tục diễn biến có lợi, nhưng đồng thời rất khó xác định đà diễn biến có lợi đó sẽ kéo dài bao lâu. Ví dụ, giá đang tăng nhanh sau khi một vài tin tức được công bố và thị trường đang cố gắng dự báo sự thay đổi của các chỉ số kinh tế vĩ mô. Các chỉ số được cải thiện có thể sẽ khiến thị trường trở nên phấn chấn. Khi đó một khoảng lệnh dừng sẽ khiến bạn tận dụng an toàn được tối đa tiềm năng của thị trường. Khi thị trường đảo chiều và chạm vào khoảng lệnh này, trạng thái giao dịch của bạn sẽ tự động đóng. Bạn có thể yên tâm theo dõi trạng thái của mình sinh lời mà không cần phải lo lắng khi nào thị trường sẽ đảo chiều. Cácnhà kinh doanh thường sử dụng khoảng lệnh dừng 15 điểm hoặc lớn hơn. Các chuyên gia hiện vẫn còn tranh luận về khoảng lệnh dừng tối ưu. Một khoảng dừng thế nào là hợp lý để không bị thị trường bắt kịp quá nhanh trước khi đảo chiều? Đồng thời, một khoảng lệnh dừng quá lớn có thể khiến điểm cắt lỗ rơi vào khoảng không thuận lợi và khiến lợi nhuận thu được thấp hơn tiềm năng. Các ý kiến về vấn đề này rất khác nhau, nhưng các nhà kinh doanh đều đồng ý rằng nên đặt khoảng lệnh dừng ở mức 40-50 điểm khi phân tích trên biểu đồ H1. Với những người sử dụng MetaTrader: khoảng lệnh dừng là một phần của phần mềm Expert Advisors và nó chỉ hoạt động nếu phần mềm giao dịch của khách hàng mở và kết nối với Internet. Đó là lý do vì sao máy chủ của các nhà môi giới không lưu giữ thông tin về các khoảng lệnh dừng của bạn nếu máy tính của bạn bị tắt.
 

AMcenter

New Member
6. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI CÓ NHỮNG THỎA THUẬN HỐI ĐOÁI NÀO?

Giao dịch giao ngay là phương thức phổ biến nhất với những người tham gia thị trường Ngoại hối. Phần lớn trong số họ không nghĩ đến câu hỏi vậy còn phương thức giao dịch nào khác trên thị trường hay không.

Tôi cho rằng việc tìm hiểu về các hoạt động hối đoái khác trên thị trường là rất cần thiết vì thị trường Ngoại hối hoạt động như một thể thống nhất và tiền có thể dễ dàng chảy từ hình thức hối đoái này sang hình thức hối đoái khác tùy thuộc vào hoàn cảnh của thị trường và tỷ lệ giữa rủi ro và lợi nhuận.

Hợp đồng giao ngay là hợp đồng hối đoái được thanh toán ngay lập tức (thanh toán và giao hàng trong vòng hai ngày làm việc kể từ ngày giao dịch). Khoảng trên 2/3 các hợp đồng hối đoái là hợp đồng giao ngay. Tỷ giá mà chúng ta vẫn thường nói đến từ đầu đến giờ thực ra chính là tỷ giá giao ngay, tức là tỷ giá hối đoái tại một thời điểm xác định. Việc giao hàng (ở đây là ngoại tệ) trong vòng 2 ngày làm việc có nghĩa là số dư trên tài khoản sẽ được ghi nợ và ghi có ngay tại thời điểm giao dịch, nhưng ngoại tệ [đóng vai trò hàng hóa] sẽ được chuyển trong vòng hai ngày làm việc. Tuy nhiên, một nhà kinh doanh vì lợi nhuận trên thị trường sẽ không cần nghĩ đến điều đó bởi sớm hay muộn thì anh ta cũng sẽ đóng trạng thái giao dịch của mình và do vậy, việc chuyển tiền thật sự không quá quan trọng với anh ta. Nếu ngày giao hàng rơi đúng vào ngày nghỉ, nó sẽ được thực hiện vào ngày giao dịch tiếp theo. Tất cả các hợp đồng đều được thực hiện trực tiếp với sự trợ giúp của hệ thống giao dịch qua máy tính, không giống các giao dịch trao đổi khác, nơi mà giá cả được xác định thông qua đấu giá.

Hợp đồng kỳ hạn (Forward contracts) là hợp đồng hối đoái có thời hạn trong đó việc trao đổi được xác định vào một ngày cụ thể trong tương lai với một tỷ giá cố định sẵn. Ví dụ, một hợp đồng được ký kết ngày hôm nay nhưng ngày giá trị lại là một thời điểm khác trong tương lai. Thời hạn của hợp đồng kỳ hạn thường là dưới một năm.

Hợp đồng kỳ hạn thường là công cụ bảo hiểm rủi ro được sử dụng để ngăn ngừa biến động tỷ giá. Một hợp đồng kỳ hạn cho phép cố định giá một ngoại tệ từ trước và giảm chi phí trao đổi tiền tệ. Ví dụ, các nhà sản xuất lớn chỉ quan tâm đến quá trình sản xuất chứ không tham gia vào các hoạt đồng đầu cơ ngoại tệ, đơn giản vì đó không phải là lĩnh vực chuyên môn của họ và họ cũng hoàn toàn không cần làm điều đó vì mục đích lợi nhuận. Như thế có nghĩa là việc cố định tỷ giá tiền tệ bằng các hợp đồng kỳ hạn cho phép các công ty trong lĩnh vực sản xuất quản lý tài chính tốt hơn và dự báo kết quả sản xuất kinh doanh của mình một cách chính xác hơn. Trong hợp đồng kỳ hạn, một đồng tiền có lãi suất thấp hơn được dùng để đổi lấy một đồng tiền có lãi suất cao hơn cộng thêm một khoản thặng dư (forward premium) và một đồng tiền có lãi suất cao hơn được dùng để đổi lấy một đồng tiền có lãi suất thấp hơn trừ đi một khoản khấu trừ (forward discount). Do vậy, tỷ giá kỳ hạn được tính bằng tỷ giá giao ngay cộng thêm một khoản thặng dư hoặc trừ đi một khoản khấu trừ. Nó cho phép các nhà kinh doanh đầu cơ vào các hợp đồng kỳ hạn bằng cách bán hoặc mua các hợp đồng kỳ hạn với hy vọng kiếm lời nhờ sự chệnh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn. Tuy nhiên, các hợp đồng kỳ hạn không được kí kết trực tiếp trên thị trường Ngoại hối, chúng là những hợp đồng riêng lẻ được thỏa thuận giữa các ngân hàng và khách hàng của mình. Các hợp đồng kỳ hạn cũng có thể là hàng hóa trao đổi để kiếm lời. Các hợp đồng mua bán ngoại tệ mà việc mua bán đã được thỏa thuận xong nhưng ngày giá trị lại là một thời điểm khác được gọi là hợp đồng tương lai. Quy mô lô cũng như thời hạn của các hợp đồng tương lai phải tuân theo tiêu chuẩn (thường là 3 tháng), đó là quy tắc trên thị trường Ngoại hối.

Hoán đổi ngoại tệ là một thỏa thuận ngoại hối nhằm trao đổi một lượng nhất định một đồng tiền nào đó lấy một đồng tiền khác cho đến một thời điểm xác định trong tương lai. Ví dụ, hoán đổi cặp EUR/USD có nghĩa là đồng euro được trao đổi với đô-la Mỹ trong một khoảng thời gian nhất định, có thể là một tháng, sau đó việc hoán đổi ngược lại sẽ diễn ra. Các thỏa thuận kiểu này đặc biệt phổ biến trong thanh toán liên ngân hàng và chiếm tới 95% tổng số hợp đồng hoán đổi tiền tệ.

Về lý thuyết, đồng tiền hoán đổi sẽ không được mua hay bán mà chỉ dùng để đổi thành một đồng tiền khác trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất gắn với các đồng tiền khác nhau cũng khác nhau, đó là lý do vì sao một trong các bên tham gia giao dịch phải bồi thường phần chênh lệch lãi suất để tránh nguy cơ lỗ cho tất cả các bên. Ví dụ, nếu bạn chuyển đổi euro thành đô-la Mỹ và gửi số tiền này vào một ngân hàng, thì mức lãi suất ngân hàng này trả cho tiền gửi bằng euro có thể thấp hơn mức lãi suất tiền gửi bằng đô-la Mỹ. Do đó, khi đóng trạng thái của giao dịch này, để thu lại số tiền ban đầu bằng euro thì một bên tham gia giao dịch phải bù đắp sự chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền.

Trên thực tế, một hợp đồng hoán đổi ngoại tệ thường bao gồm 2 hợp đồng, một hợp đồng giao ngay và một hợp đồng kỳ hạn cùng giá trị. Trong giao dịch được đề cập đến ở trên, hợp đồng hoán đổi sẽ bao gồm một hợp đồng giao ngay bán euro mua đô-la Mỹ và một hợp đồng kỳ hạn bán đô-la Mỹ mua euro trong vòng một tháng và được thực hiện đồng thời.

Quyền chọn ngoại hối hay quyền chọn ngoại tệ là các hợp đồng cho phép người mua quyền chọn được mua hay bán một lượng ngoại tệ nào đó tại một mức giá cho trước trong một khoảng thời gian nhất định. Họ có quyền nhưng không bị bắt buộc phải thực hiện việc mua hay bán đó trong tương lai. Người mua có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền của mình. Việc tùy ý sử dụng quyền của người mua khiến cho hợp đồng quyền chọn tiền tệ trở nên rất hấp dẫn, tất nhiên là người mua phải trả phí cho quyền của mình, nghĩa là người mua quyền chọn tiền tệ phải trả một khoản tiền không bồi hoàn cho người bán theo các điều khoản định trước.

Nếu người mua chọn thực hiện quyền của mình thì quyền chọn tiền tệ có thể khiến anh ta phải chịu lỗ trong trường hợp tỷ giá biến động theo xu hướng bất lợi nhưng đồng thời, nó cũng cho phép anh ta kiếm được số lãi nhiều hơn nếu tỷ giá thay đổi theo chiều hướng có lợi cho anh ta. Đặc điểm nổi bật của quyền chọn với vai trò là hợp đồng bảo hiểm rủi ro là người bán quyền chọn tiền tệ cũng phải chịu những rủi ro đáng kể. Nếu người bán quyền chọn tính toán không chính xác, anh ta sẽ phải chịu một khoản lỗ còn lớn hơn mức phí của quyền chọn thu được. Đó là lý do vì sao người bán quyền chọn thường hạ thấp mức chênh lệch trong quyền chọn tiền tệ và nâng cao mức phí cho quyền chọn này – điều không hề dễ chấp nhận đối với người mua.

Tính chất của quyền chọn được thể hiện ở ngày hết hạn thực hiện quyền, tỷ giá tiền tệ và phí quyền chọn. Khách hàng có quyền tùy chọn mức giá thực hiện bằng việc thỏa thuận với một ngân hàng, nhưng cần nhớ rằng phí hòa hồng mà anh ta phải trả cho ngân hàng cũng phụ thuộc vào mức giá thực hiện đó.

Biểu đồ dưới đây minh họa tỷ lệ của mỗi loại hợp đồng ngoại hối tính theo mức cầu của thị trường:



Swaps – hợp đồng hoán đổi tiền tệ

Spot – hợp đồng giao ngay

Forwards – Hợp đồng kỳ hạn

Options – Hợp đồng quyền chọn

Futures – hợp đồng tương lai
 

AMcenter

New Member
7. BẠN CÓ THỂ SỬ DỤNG NHỮNG LOẠI LỆNH NÀO TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI?

Loại lệnh đầu tiên và phổ biến nhất là Lệnh thị trường (market order), được đặt với mức giá bằng giá thị trường tại thời điểm đặt lệnh, cũng chính là mức giá hiển thị trên màn hình giao dịch của nhà kinh doanh tại thời điểm đó. Tỷ giá này thay đổi khoảng 20 ngàn lần trong mỗi ngày. Vậy thì có điều gì hấp dẫn và thú vị khiến người ta phải chăm chú theo dõi sự thay đổi của nó trên màn hình suốt cả ngày hay không? Câu trả lời là không! Nó chỉ là giá thị trường tại những thời điểm bất kì, mà phần lớn là khác biệt khá xa so với mức giá mà chúng ta mong muốn mua vào hoặc bán ra. Nếu vẫn cố gắng thực hiện lệnh này tại một mức giá cụ thể nào đó, có thể bạn sẽ phải đợi hàng giờ, thậm chí nhiều ngày để đến được với thời khắc hoàn hảo khi tỷ giá đạt mức bạn mong muốn.
Tuy nhiên, để không phải ngồi trước màn hình máy tính và chờ đợi lâu như vậy, bạn có thể sử dụng một công cụ khác gọi là Lệnh chờ (pending order).
Có bốn loại lệnh chờ khác nhau:

Với loại lệnh này giá được đặt ở mức cao hơn so với giá thị trường tại thời điểm đặt lệnh. Các bạn có thể thắc mắc sao lại có người kỳ quặc tới mức muốn mua ở mức giá này? Vấn đề nằm ở chỗ khi thị trường đang điều chỉnh, người ta không thể chắc chắn được giá cả sẽ biến động theo chiều hướng nào (tăng hay giảm)? Chỉ có chính sự thay đổi của bản thân giá cả mới là sự phản ánh thực tế nhất chiều hướng đó. Chiến lược kinh doanh ở đây là thực hiện giao dịch ở mức giá cao hơn một chút nhưng chỉ khi giá đã lên cao đến mức đó, nhà kinh doanh mới có thể phần nào chắc chắn về xu hướng biến động của thị trường.

Giá ứng với loại Lệnh này thấp hơn so với giá thị trường. Như các bạn thấy, ý tưởng ở đây là sử dụng chiến lược Mua thấp, bán cao bằng cách đặt trước thời điểm mà tại đó bạn nghĩ rằng giá sẽ ở mức thấp nhất và sau đó nó chỉ có thể tăng lên mà thôi. Nếu bạn nghĩ giá sẽ tiếp tục giảm đến một mức xác định nào đó và sau đó sẽ chỉ tăng lên, bạn nên đặt Lệnh giới hạn mua để hệ thống tự động thực hiện lệnh cho bạn tại thời điểm thích hợp.
.
Lệnh giới hạn bán có giá cao hơn giá thị trường.
Một lệnh giới hạn bán được sử dụng để bán với mức giá cao nhất có thể trước khi thị trường đi xuống và chuyển sang một xu hướng mới.

Lệnh chờ bán có giá thấp hơn giá thị trường.
Lệnh này được sử dụng trong chiến lược Theo đuổi thị trường khi một nhà kinh doanh bán một loại ngoại tệ trong khi giá của nó đang xuống với hy vọng nó sẽ còn xuống thấp hơn nữa.
 

AMcenter

New Member
8. CHUYỂN TRẠNG THÁI QUA ĐÊM (ROLLOVER HAY OVERNIGHT, SWAP) LÀ GÌ?

Khi mở một trạng thái giao dịch nhà kinh doanh sẽ quản lý tiền được nhà môi giới cung cấp. Hay nói một cách khác là nhà kinh doanh đi vay một loại tiền tệ này để mua một loại tiền tệ khác.


Như vậy, nhà kinh doanh sẽ phải trả lãi trên khoản tiền đã vay và đương nhiên là có quyền kiếm lời trên số ngoại tệ đã mua từ khoản vay đó. Nhà kinh doanh sẽ phải thanh toán các khoản lãi này khi duy trì trạng thái đối với một cặp tiền tệ nào đó qua đêm. Nó được xác định bởi hai yếu tố: sự chênh lệch lãi suất giữa các đồng tiền và khối lượng ngoại tệ được mua.



Chuyển trạng thái qua đêm chỉ diễn ra khi nhà kinh doanh duy trì trạng thái giao dịch của mình qua đêm. Về mặt kỹ thuật, điều đó có nghĩa là nó được duy trì tới nửa đêm hoặc sau nửa đêm (theo thời gian ghi trên màn hình giao dịch của nhà kinh doanh). Ngược lại, việc trạng thái giao dịch đó đã được duy trì trong bao lâu trước thời điểm nửa đêm không quan trọng. Nhà kinh doanh có thể mở một trạng thái vào lúc 11giờ 55 đêm. Điều quan trọng là anh ta có để mở trạng thái đó qua nửa đêm (12 giờ) hay không. Lãi suất qua đêm được nhà môi giới quy định từ trước kèm theo một bảng giá hoán đổi ngoại tệ.

Về mặt kỹ thuật, trên thị trường Ngoại hối, việc duy trì trạng thái qua đêm có nghĩa là một thỏa thuận hoán đổi tiền tệ đã được thực hiện tại những thời điểm – ngày - khác nhau: một trạng thái thái này được đóng lại đồng thời một trạng thái khác với cùng khối lượng ngoại tệ được mở ra, nhưng tại một thời điểm – ngày - khác. Nhà kinh doanh có thể thấy rằng dựa vào trạng thái giao dịch cụ thể, mua hoặc bán, anh ta có thể nhận được hợp đồng hoán đổi có lợi hay bất lợi. Khi mua một ngoại tệ với tỷ lệ lãi suất cao hơn, nhà kinh doanh sẽ có lợi từ chênh lệch lãi suất, và sự chênh lệch này càng lớn thì lợi nhuận có được càng cao. Việc mua các loại tiền tệ có lãi suất cao như đồng đô-la Úc hay New Zealand sẽ cho các nhà kinh doanh cơ hội kiếm lời từ chênh lệch lãi suất. Tuy nhiên, cũng không nên quên rằng sự biến động giá cả trong ngày của các loại tiền tệ có khả năng cho lợi nhuận (hoặc thua lỗ) cao hơn nhiều so với chênh lệch lãi suất. Vì vậy đầu tư vào chênh lệch lãi suất chắc chắn là một sự đầu tư lâu dài chứ không phải công cụ đầu cơ. Khi quyết định mở một trạng thái giao dịch trong dài hạn, nhà kinh doanh nên lưu ý tới lãi suất qua đêm. Việc xem xét kỹ sự chênh lệch tỷ giá khá quan trọng trong khi thị trường đang điều chỉnh với rủi ro biến động giá cả (tăng hoặc giảm nhanh) là rất cao. Khi đó, nếu tất cả các điều kiện khác là như nhau thì sự chệnh lệch tỷ giá có thể tạo ra lợi nhuận lớn trong những khoảng thời gian nhất định.

Lưu ý: Lãi suất qua đêm từ ngày thứ Tư sang ngày thứ Năm thường cao gấp ba lần so với những ngày khác. Bởi một trạng thái được mở vào Thứ Tư có ngày giá trị là Thứ Sáu. Tuy nhiên, do thị trường không giao dịch vào các ngày cuối tuần nên nếu một trạng thái được chuyển từ Thư Tư sang Thứ Năm thì ngày giá trị của nó sẽ là ngày Thứ Hai của tuần tiếp theo; do đó, lãi suất qua đêm từ thứ Tư sang thứ Năm sẽ tương đương với lãi suất của ba ngày.
 

AMcenter

New Member
9. TỶ GIÁ CỦA CÁC HỢP ĐỒNG TƯƠNG LAI ĐƯỢC TÍNH TOÁN NHƯ THẾ NÀO?
:14:
Tỷ giá một hợp đồng tương lai được tính toán như sau:

S × (N – B) × T

FW = S + -------------------------

360 × 100 + (B × T)

Trong đó:

FW = tỷ giá hợp đồng tương lai (future contract rate)

S = Tỷ giá giao ngay (spot rate)

B = lãi suất đồng tiền định giá

N = lãi suất đồng tiền yết giá

360 = số ngày của một năm (có thể là 365 tùy thuộc vào loại tiền tệ cụ thể)

T = thời gian đáo hạn

Tỷ giá của các hợp đồng tương lai, như các bạn thấy, có tính đến chênh lệch lãi suất giữa các đồng tiền. Giả sử có một hợp đồng tương lai thời hạn một năm được kí kết vào ngày hôm nay, trong đó một ngân hàng sẽ phải mua đồng đô-la Mỹ bằng đồng euro. Vậy họ sẽ làm gì? Do giao dịch này sẽ chỉ thực sự diễn ra một năm sau ngày kí kết hợp đồng nên ngân hàng đã chấp nhận rủi ro là tỷ giá ngoại tệ có thể sẽ thay đổi theo hướng bất lợi cho mình và họ có thể sẽ phải mua đồng đô-la Mỹ với giá cao hơn mức hiện tại. Để bảo hiểm rủi ro cho mình, ngân hàng sẽ đi vay một khoản tiền bằng đồng euro để mua đồng đô-la Mỹ ngay tại thời điểm kí hợp đồng nói trên. Số tiền đô-la Mỹ có được sẽ được đem cho vay trên thị trường liên ngân hàng để thu lãi. Như vậy ngân hàng sẽ kiếm lời trên đồng đô-la và trả lãi trên đồng euro. Ngân hàng không phải chịu rủi ro gì bởi tỷ giá của hợp đồng tương lai đã được tính toán sao cho nó có thể bù đắp cho chi phí mà ngân hàng phải trả (trong trường hợp lãi thu được từ cho vay đồng đô-la Mỹ thấp hơn lãi phải trả trên khoản vay bằng đồng euro) hoặc thua lỗ mà ngân hàng phải chịu (trong trường hợp lãi thu được từ cho vay đồng đô-la Mỹ cao hơn lãi phải trả trên khoản vay bằng đồng euro nhưng tỷ giá tại thời điểm đáo hạn lại không có lợi so với tỷ giá thỏa thuận tại hợp đồng). Ngân hàng cũng thu một khoản phí để trang trải chi phí hoạt động và thu một chút lợi nhuận nữa.

Hãy cùng xem xét một ví dụ cụ thể sau đây. Chúng ta sẽ tính toán tỷ giá của cặp tiền tệ EUR/USD trong hợp đồng tương lai kỳ hạn nửa năm (180 ngày), mua euro bằng đô-la Mỹ. Lãi suất ngân hàng của đồng đô-la Mỹ là 4.5% và lãi suất ngân hàng của đồng euro là 4%. Tỷ giá EUR/USD là 1.4500 tại thời điểm kí hợp đồng.

1.45 × (4.5 – 4) × 180

FW = 1.4500 + -----------------------------------= 1.45 + 0.00697= 1.4569

180 × 100 + (4 ×180)

Như vậy, tỷ giá hợp đồng tương lai của cặp EUR/USD kỳ hạn 180 ngày (với tỷ giá tại thời điểm kí là 1.4500) là 1.4569. Ví dụ này chỉ cho bạn cách kiểm tra độ chính xác của tỷ giá trong các hợp đồng tương lai mặc dù trên thực tế bạn không cần làm điều đó bởi ngân hàng hoặc các nhà môi giới đã cung cấp cho bạn đầy đủ tất cả các thông tin rồi.
 

AMcenter

New Member
10. KIẾM TIỀN TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI NHƯ THỂ NÀO?

Mục tiêu chính của bất kỳ nhà đầu cơ tiền tệ nào cũng là mua một ngoại tệ ở giá thấp hơn và sau một thời gian bán lại chúng với giá cao hơn, hoặc ngược lại, bán một ngoại tệ với giá cao hơn rồi mua lại chúng một thời gian sau đó với giá thấp hơn. Sự khác biệt giữa giá mua (Ask Price) và giá bán (Bid Price) tạo ra lợi nhuận cho nhà kinh doanh.

Mặt khác, các đồng tiền được trao đổi cũng không thực sự được chuyển cho nhà kinh doanh theo đúng nghĩa đen bởi một khi đã mở một trạng thái giao dịch, nhà kinh doanh cuối cùng cũng sẽ đóng nó lại để chốt lời (hoặc cắt lỗ). Hãy xem xét ví dụ sau đây để thấy nhà kinh doanh tạo ra lợi nhuận thế nào và cách tính toán chúng ra sao:

Điều kiện ban đầu: số dư tài khoản giao dịch là 1,000 USD. Tỷ lệ giao dịch ký quỹ cho phép: 1:200. Tỷ giá cặp tiền tệ giao dịch EUR/USD là 1.5413/1.5415.
Vào lúc 9 giờ 15 sáng, chúng ta mua một lô EUR (10,000 đơn vị) với giá 1.5415 USD ăn 1 EUR với hy vọng EUR sẽ tiếp tục tăng giá so với USD. Nếu không sử dụng đòn bẩy để mở trạng thái, chúng ta sẽ cần có số tiền là 1.5415*10,000 = 15,415 USD.
Nếu mở một trạng thái tương tự nhưng sử dụng đòn bẩy tỷ lệ 1:200 thì chúng ta sẽ chỉ phải ký quỹ số tiền ban đầu là: 15,415/200 = 77.08 USD.
Một điểm (thay đổi 0.0001) trong tỷ giá hối đoái EUR/USD với số lượng 0,1 lô tiêu chuẩn như trên sẽ mang lại 1 USD lợi nhuận hoặc thua lỗ.
Vào lúc 9 giờ 45 tối cùng ngày, giá đạt mức 1.5550 (giá bán). Giả sử chúng ta quyết định đóng trạng thái và thu lợi nhuận tại đây, ta có thể làm điều đó một cách đơn giản là thực hiện một lệnh bán trên màn hình hoặc đặt một lệnh chốt lời từ trước, cho phép hệ thống tự động đóng trạng thái đó khi giá đạt mức cho trước.
Sự chênh lệch giữa giá mở và đóng trạng thái là 1.5550 – 1.5415 = 0.0135 (135 pip)
Lợi nhuận có được từ giao dịch này là 135*1 = 135 USD. Số dư tài khoản giao dịch sau khi trạng thái giao dịch này đóng là 1,000 + 135 = 1,135 USD.
Nếu chúng ta mở trạng thái với khối lượng tương đương 0.01 lô tiêu chuẩn (chỉ ký quỹ 7.71 USD), lợi nhuận thu được sẽ là 13.50 USD. Nếu chúng ta mở trạng thái với khối lượng 1 lô tiêu chuẩn (ký quỹ 770.75 USD) thì lợi nhuận thu được sẽ là 1350 USD.
Đây chỉ là một ví dụ cho thấy lợi nhuận tiềm năng trên thị trường Ngoại hối có thể lớn tới mức nào. Tuy nhiên, nếu dự đoán của chúng ta sai thì mặt trái của nó sẽ ngay lập tức lộ diện, lợi nhuận lớn sẽ chuyển thành thu lỗ nặng nề.
 

AMcenter

New Member
11. BẠN SẼ GẶP PHẢI NHỮNG RỦI RO GÌ TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI?


[GON]
Đối với rất nhiều người, từ “rủi ro” mang một ý nghĩa tiêu cực. Tuy nhiên mỗi hành động của chúng ta đều chứa đựng rủi ro theo cách này hay cách khác. Thị trường Ngoại hối bản thân nó không chứa bất cứ một rủi ro nào và được coi là trung lập bởi tổng lợi nhuận và thua lỗ của toàn thị trường luôn luôn cân bằng.

Rủi ro của một khoản đầu tư là khả năng khoản đầu tư đó mất giá trị, khả năng thua lỗ càng cao thì rủi ro càng lớn. Nhưng làm thế nào ước lượng được rủi ro? Có rất nhiều loại rủi ro, và phương pháp đánh giá khả năng gây thua lỗ của chúng cũng khác nhau. Rủi ro có thể được định lượng (thua lỗ tiềm ẩn) hoặc định tính (khả năng xảy ra thua lỗ). Nhà kinh doanh luôn có thể hạn chế rủi ro bằng cách xác định mức thua lỗ tối đa mà chúng có thể gây ra. Những nhà kinh doanh mới bắt đầu thường cố đặt ra giới hạn cắt lỗ càng gần với giá thị trường càng tốt mà không hiểu rằng làm như vậy là họ đã tăng đáng kể khả năng thua lỗ xảy ra mặc dù bản thân khoản lỗ đó có thể không lớn. Các phương pháp quản lý rủi ro được sử dụng để tăng khả năng lợi nhuận và giảm thiểu thua lỗ. Vậy các nhà kinh doanh sẽ gặp phải những loại rủi ro nào trên thị trường Ngoại hối?
Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là rủi ro gắn liền với sự thay đổi tỷ giá niêm yết của các loại tiền tệ trên thị trường. Thực ra, những thay đổi này cũng chính là điều chúng ta mong đợi khi đầu tư vào thị trường Ngoại hối. Đây là rủi ro lớn nhất trong tất cả các loại rủi ro, nhưng đồng thời cũng mang lại lợi nhuận lớn nhất cho nhà đầu tư. Bất cứ công cụ nào nhằm hạn chế rủi ro này cũng đồng thời hạn chế lợi nhuận tiềm năng.
Rủi ro lãi suất
Chênh lệch lãi suất (swap) được tính toán trên mỗi trạng thái giao dịch nếu nó được duy trì qua đêm. Chênh lệch lãi suất là khoảng khác biệt giữa lãi suất của các đồng tiền trong một cặp ngoại tệ. Khoảng khác biệt này càng lớn thì số tiền chênh lệch lãi suất âm hoặc dương trên mỗi trạng thái mở qua đêm càng cao. Ví dụ, chúng ta mở một trạng thái đối với cặp EUR/USD, mua đồng euro bằng đồng đô-la. Tại thời điểm mua, lãi suất đồng euro cao hơn 2% so với lãi suất đồng đô-la, điều đó có nghĩa là dù tỷ giá EUR/USD có thay đổi thế nào thì chúng ta vẫn nhận được một phần lãi nhờ duy trì trạng thái giao dịch này qua đêm. Để kiếm một khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch lãi suất, nhà kinh doanh cần duy trì trạng thái giao dịch của mình trong một thời gian dài. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian đó rủi ro hối đoái có thể lớn hơn nhiều so với lợi nhuận tiềm năng thu được từ chênh lệch lãi suất.
Các ngân hàng trung ương định kỳ thay đổi lãi suất để quản lý nền kinh tế và như vậy, mức chênh lệch lãi suất cũng thay đổi theo. Một khoảng chênh lệch dương đôi khi có thể biến thành âm. Tuy vậy, sự thay đổi này hiếm khi xảy ra và một sự cắt giảm lãi suất lớn cũng không bao giờ diễn ra nhanh chóng mà từ từ từng bước một. Đó là lý do tại sao các nhà kinh doanh nên để mắt tới sự thay đổi lãi suất của các đồng tiền nếu muốn theo đuổi một chiến lược đầu tư lâu dài. Còn đối với các giao dịch diễn ra hàng ngày, nhà kinh doanh có thể không cần để ý tới lãi suất này.
Rủi ro thanh khoản của các nhà môi giới
Nhà môi giới thực hiện giao dịch trên thị trường theo yêu cầu của khách hàng và vì lợi ích của khách hàng. Nhà môi giới không phải chịu rủi ro hối đoái và thu lợi nhờ chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Điều đó cho phép nhà môi giới quản lý hoạt động của mình với một mức lợi nhuận tương đối thấp tuy nhiên rất ổn định và có thể tính toán trước được. Tuy nhiên, rủi ro mất thanh khoản của các nhà môi giới vẫn có thể xảy ra. Lợi nhuận của một công ty môi giới cần đủ lớn để trang trải hết chi phí hoạt động.
Các nhà kinh doanh có kinh nghiệm hẳn vẫn còn nhớ vụ phá sản của Công ty Refco vào tháng Mười năm 2005. Là một trong những nhà môi giới lớn nhất thị trường Ngoại hối Chicago, trong thời kỳ đỉnh cao, Refco đã có tới hơn 200.000 khách hàng. Tuy nhiên, công ty này đã đánh mất uy tín và khách hàng do các vấn đề tài chính và phương pháp kế toán sai lầm dẫn đến phá sản và một vụ scandal lớn sau đó. Bài học rút ra từ sự việc này là quy mô lớn chưa hẳn đã đảm bảo cho thành công hay sự ổn định. Đối với vấn đề quản trị rủi ro thanh khoản của nhà môi giới bạn lựa chọn thì kinh doanh một cách có trách nhiệm còn quan trọng hơn nhiều.
Hiện nay, thị trường dịch vụ môi giới Ngoại hối đã khá ổn định, rào cản gia nhập thị trường tương đối lớn bởi các điều kiện kinh doanh đều đã trở thành tiêu chuẩn chung và các nhà môi giới mới sẽ gần như không có khả năng đáp ứng được chúng mà không phải đánh đổi bằng lợi nhuận của mình. Vào những năm 1990, quá trình chọn lọc tự nhiên diễn ra rất mạnh mẽ trên thị trường Ngoại hối, tạo ra một môi trường trong đó chỉ những công ty duy trì được hoạt động kinh doanh lành mạnh và khả năng ứng phó nhanh với những thay đổi môi trường kinh doanh mới có thể tồn tại. Điều này đã làm giảm đáng kể rủi ro mất thanh khoản của các nhà môi giới, tuy nhiên, vẫn có rủi ro nhà môi giới không thực hiện thỏa thuận giao dịch đã có với khách hàng.
Nhà môi giới quản lý tài khoản của khách hàng, và vì vậy có thể thực hiện các lệnh chờ ở mức giá khác với mức khách hàng đã định, hoặc hủy các lệnh chờ khách hàng đã đặt đi. Tóm lại, có rất nhiều giao dịch trong đó nhà môi giới có thể mắc sai lầm hoặc thực hiện không chính xác. Đó là vấn đề chất lượng và phương thức hoạt động của nhà môi giới. Bạn có thể tham khảo thêm ở mục “Chọn nhà môi giới thế nào?”.
Rủi ro thiếu thanh khoản tài khoản giao dịch
Trường hợp khách hàng không có đủ số dư trong tài khoản giao dịch, toàn bộ hoặc một phần các trạng thái giao dịch của anh ta sẽ bị nhà môi giới tự động đóng lại tại mức giá thị trường. Thường thì nó sẽ khác xa so với mức giá mà nhà kinh doanh mong đợi, mà lý do là rủi ro khi đó đã trở nên nghiêm trọng.
Các nhà kinh doanh thường có một suy nghĩ sai lầm là khi có nhiều tiền trong tài khoản thì khả năng thành công sẽ cao hơn. Thế nhưng số tiền có sẵn trong tài khoản không phải là yếu tố mang tính quyết định khả năng thành công bởi có rất nhiều cơ hội kinh doanh không đòi hỏi một lượng tiền lớn ban đầu như kinh doanh theo lô nhỏ (mini-lots) hay siêu nhỏ (micro-lots). Chính tỷ lệ số dư tài khoản/tổng các trạng thái mở và phương pháp quản trị rủi ro mới là yếu tố quan trọng nhất. Cuối cùng, chính nhà kinh doanh sẽ là người định ra mức độ rủi ro mình sẽ gánh chịu khi mở một trạng thái và chọn khối lượng giao dịch. Khi lựa chọn quy mô giao dịch, lời khuyên hợp lý dành cho nhà kinh doanh sẽ là: “Đừng giao dịch các lô lớn đến mức toàn bộ vốn tự có của bạn phụ thuộc hoàn toàn vào một hay hai giao dịch. Nếu bạn cần phải tới ngân hàng để nộp thêm tiền vào tài khoản nhằm duy trì một trạng thái giao dịch thì bạn cần xem xét lại chiến lược kinh doanh của mình”.[/GON]
 
Last edited by a moderator:

AMcenter

New Member
12. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI HOẠT ĐỘNG NHƯ THẾ NÀO?



[GON]

Thị trường Ngoại hối đã chứng kiến những thay đổi lớn lao trong suốt hai thập kỷ qua nhờ những thành tựu do tiến bộ công nghệ mang lại, trong đó đáng kể nhất là Internet và sự phát triển của các phần mềm.

Giao dịch Ngoại hối trước đây chỉ dành cho các tổ chức kinh doanh và ngân hàng, còn giờ đây nó đã trở nên phổ biến và dễ dàng tiếp cận với cả các nhà đầu tư cá nhân, qua đó trở thành khu vực đầu tư tài chính phát triển nhanh nhất. Hoạt động hối đoái từng chỉ dành riêng cho các ngân hàng lớn nắm quyền thống trị trên trị trường đã trở nên thông dụng với tất cả mọi người nhờ hệ thống thanh toán điện tử. Khi hệ thống này dần trở nên phổ biến, số lượng nhà đầu tư lựa chọn phương thức giao dịch điện tử thay vì giao dịch qua ngân hàng đã tăng lên nhanh chóng.

Vào những thời kỳ đầu trong quá trình phát triển của giao dịch ngoại hối, tất cả các hoạt động đều được thực hiện qua điện thoại – sau khi xác thực khách hàng, nhà môi giới thông báo giá niêm yết và khách hàng đưa ra lựa chọn mua hay bán một loại tiền tệ nào đó. Các hệ thống giao dịch điện tử hiện đại như MetaTrader, Reuters Dealing System, hay EDS, và các phần mềm khác rất ưu việt nhờ khả năng kiểm soát các hoạt động giao dịch và mang lại cơ hội cho các nhà kinh doanh hiện đại. Bất cứ khách hàng nào muốn giao dịch trên thị trường Ngoại hối cũng chỉ cần kí kết thỏa thuận với một nhà môi giới, và thỏa thuận này sẽ giúp anh ta tiếp cận trực tiếp với thị trường. Các nhà môi giới đóng vai trò trung gian và họ có chức năng làm cầu nối giữa những khách hàng cá nhân nhỏ lẻ với các tổ chức có ảnh hưởng tới thị trường mà thường là các ngân hàng lớn.

Liệu có khả năng nào trong đó các nhà đầu tư cá nhân tránh được việc phải giao dịch thông qua trung gian và tham gia trực tiếp vào thị trường liên ngân hàng hay không? Quy mô nhỏ nhất của một lô giao dịch trên thị trường này là 100,000 đơn vị của đồng tiền định giá. Bởi vậy, nếu tham gia trực tiếp vào thị trường thì để thực hiện một giao dịch như vậy, nhà kinh doanh sẽ phải trả trung bình khoảng 5-10 triệu USD mà không được phép sử dụng công cụ quen thuộc là đòn bẩy với tỷ lệ 1:100. Vì vậy, cách duy nhất để một nhà kinh doanh cá nhân không chuyên tham gia thị trường là thông qua nhà môi giới. Sự sắp đặt như thế rõ ràng là có lợi cho bản thân nhà kinh doanh, bởi nếu không có các nhà môi giới, các nhà kinh doanh nhỏ với số vốn hạn chế sẽ không có cơ hội tham gia vào thị trường. Thêm vào đó, nhà môi giới chịu trách nhiệm đảm bảo rằng tất cả khách hàng đều tuân thủ các quy định liên quan, ngoài ra họ còn hỗ trợ về mặt kỹ thuật và tư vấn cho khách hàng của mình.

Nhưng làm thế nào mà khách hàng của các nhà môi giới lại có thể thực hiện giao dịch trong khi chỉ có tài sản ký quỹ là số tiền nhỏ bằng một phần trăm so với giá trị giao dịch? Các thành viên của thị trường liên ngân hàng luôn tin tưởng lẫn nhau (ngân hàng trung ương với tư cách là tổ chức điều hành đưa ra những yêu cầu chặt chẽ với các ngân hàng thành viên do mình quản lý và chịu trách nhiệm cấp giấy phép hoạt động cho họ). Vì vậy họ có thể tự do mua và bán một khối lượng lớn ngoại tệ trong ngày giao dịch mà không cần phải thực sự trao đổi lượng ngoại tệ đó. Chính điều này khiến các ngân hàng cho phép khách hàng của mình được giao dịch bằng đòn bẩy. Với tỷ lệ 1:100, tài sản ký quỹ sẽ không lớn, hơn nữa mức độ biến động tỷ giá hối đoái lớn nhất trong một ngày giao dịch chỉ vào khoảng 2-3% và trên thực tế hiếm khi vượt quá 1%. Như vậy, các ngân hàng hay nhà môi giới không phải gánh chịu bất cứ rủi ro nào khi cho phép khách hàng của mình sử dụng đòn bẩy để giao dịch. Trong một thị trường có tính thanh khoản cao, những tổ chức này luôn có khả năng loại bỏ những trạng thái không tạo ra lợi nhuận và không đáp ứng các yêu cầu của chính sách quản trị rủi ro của họ bằng cách mở một trạng thái giao dịch tương đương thông qua một tổ chức lớn trên thị trường.

Có hai dạng hoạt động chính trên Thị trường Ngoại hối: làm việc với khách hàng (kí kết hợp đồng môi giới, hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo và tư vấn về thị trường ngoại hối) và giao dịch (thực hiện các hoạt động giao dịch, quản trị rủi ro hối đoái). Dạng hoạt động đầu tiên, cung cấp dịch vụ cho khách hàng, có thể được gọi là hoạt động bán lẻ, còn dạng hoạt động thứ hai có thể được gọi là hoạt động bán buôn trong đó chỉ có các ngân hàng xử lý hàng loạt các giao dịch hối đoái mà không cần quan tâm tới việc đối tác trao đổi với mình là ai. Dạng hoạt động thứ hai chính là đặc điểm chính của các nhà tạo lập thị trường.

Bảng mô tả hoạt động của thị trường Ngoại hối như sau: nhà môi giới phục vụ rất nhiều khách hàng theo thỏa thuận (điều khoản kinh doanh). Trung tâm dịch vụ khách hàng (Broker’s Help Desk) hỗ trợ khách hàng và hoạt động 24 giờ mỗi ngày.

–Nhà kinh doanh

– Nhà môi giới

– Tổ chức thanh toán bù trừ

– Thị trường Ngoại hối

– Ngân hàng

– Phần mềm giao dịch MetaTrader4 ...

– Các hệ thống thông tin đặc biệt nhưReuters, Bloomberg, Tenfor, DBC, etc.

Một nhà môi giới có rất nhiều khách hàng. Những khách hàng này đặt lệnh giao dịch thông qua nhà môi giới của mình, người sau đó sẽ trực tiếp đặt lệnh trên thị trường.

Trong thực tế, các nhà môi giới Ngoại hối hoạt động giống như các nhà môi giới bảo hiểm, tổ chức tiến hành tái bảo hiểm cho khách hàng của mình thông qua một công ty bảo hiểm lớn hơn để đảm bảo các điều khoản đã kí kết được thực hiện đồng thời kiếm lợi nhuận từ đó.

Một tổ chức thanh toán bù trừ (một nhà cung cấp thanh khoản) cung cấp thông tin về giá cho nhà môi giới, và nhà môi giới đến lượt mình đặt ra mức chênh lệch giữa giá chào mua và giá chào bán của từng cặp ngoại tệ cũng như tỷ lệ đòn bẩy phù hợp. Thị trường Ngoại hối bị chi phối bởi hai hệ thống giao dịch lớn giữa các định chế tài chính đó là Reuters với hơn 1,600 ngân hàng thành viên và Bloomberg với hơn 1,000 ngân hàng thành viên. Nhà môi giới đến lượt mình chuyển các mức giá niêm yết nhận được từ các công ty thanh toán bù trừ đến khách hàng và xử lý các lệnh giao dịch của họ. Trên thực tế, khách hàng không mấy quan tâm đến việc các nhà môi giới đảm bảo các điều khoản giao dịch bằng cách nào, điều quan trọng đối với họ là giá niêm yết của nhà môi giới có đúng với giá niêm yết thực trên thị trường và các lệnh giao dịch của họ có được thực hiện một cách chính xác hay không. Tuy nhiên, hiểu biết về quy trình hoạt động của các nhà môi giới, những gì họ được phép và không được phép làm sẽ giúp bạn hiểu được điều gì đang thực sự diễn ra trên phần mềm giao dịch của bạn và trên máy chủ của nhà môi giới.[/GON]
 
Last edited by a moderator:

AMcenter

New Member
13. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI GIAO DỊCH LÚC NÀO VÀ Ở ĐÂU?

Thị trường ngoại hối là thị trường phi tập trung. Nó bao gồm tất cả các thành phần tham gia được kết nối với nhau bằng hệ thống thanh toán điện tử. Nó hoạt động suốt 24 giờ mỗi ngày và 5 ngày một tuần. Tuy nhiên, giờ làm việc thì được chia thành một vài múi giờ như sau:



Phiên giao dịch Châu Á, Tokyo

Giá trị giao dịch giao ngay tại đây chiếm khoảng 17% tổng giá trị giao dịch toàn thị trường.

Thanh khoản của thị trường tương đối thấp trong phiên giao dịch này. Tuy nhiên đây lại là phiên mở cửa đầu tiên trong ngày giao dịch và các nhà kinh doanh ở Châu Âu thường sử dụng dữ liệu kết quả của nó để phân tích thị trường. Giá trị giao dịch lớn nhất trong phiên này là của đồng Yên Nhật, theo sau là đô-la Australia và New Zealand.

Giá trị giao dịch tính theo các cặp tiền tệ:

USD/JPY – 69%, EUR/USD – 13%, EUR/JPY – 4%, các cặp tiền tệ khác – 14%.

Phiên giao dịch Châu Âu, London

Giá trị giao dịch giao ngay tại đây chiến khoảng 55% tổng giá trị toàn thị trường.

Đây là phiên giao dịch quan trọng nhất xét về khối lượng và mức độ hoạt động của những người tham gia. Nó có tính thanh khoản cao nhất. Phần lớn các nhà môi giới đều có đại diện hoặc công ty con tại London.

Phiên giao dịch Mỹ, New York

Giá trị giao dịch giao ngay tại đây chiếm khoảng 28%.

Phiên giao dịch Mỹ xếp thứ hai sau phiên giao dịch Châu Âu xét về khối lượng giao dịch.

Giá trị giao dịch lớn nhất được thực hiện tại phiên giao dịch của Châu Âu, khoảng từ 1 giờ chiều tới 5 giờ chiều giờ London. Sau 5 giờ chiều giờ London, tần suất hoạt động của thị trường giảm khoảng 50% và diễn ra chủ yếu ở California (Mỹ) vào cuối phiên, đây cũng là thời điểm chuyển giao giữa phiên giao dịch Mỹ và Châu Âu.

Theo truyền thống, biến động tỷ giá trong suốt phiên giao dịch tại Mỹ thường bị ảnh hưởng rất nhiều bởi thị trường cổ phiếu và trái phiếu. Mối tương quan giữa các thị trường này có thể nhận thấy một cách rõ nét nhất tại đây.

Việc biết giờ giao dịch của các thị trường tài chính khác nhau cũng hết sức quan trọng. Thời gian giao dịch được nêu trong bảng sau:

Thị trường

Giờ giao dịch (GMT)

Ngoại hối, Kim loại giao ngay

24 giờ, Thứ Hai đến Thứ Sáu

Chứng khoán Mỹ, CFD

4:30 chiều - 11:00 đêm,Thứ Hai đến Thứ Sáu

Năng lượng

2:00 sáng. - 9:30 tối, Thứ Hai đến Thứ Sáu

Hàng hóa tương lai

2:30 sáng. - 4:00 sáng, 5:30 chiều - 9:15 tối, Thứ Hai đến Thứ Sáu

Lợi thế của việc thị trường Ngoại hối hoạt động suốt 24 giờ là nó sẽ phản ứng ngay lập tức đối với những sự kiện có tác động lớn. Trong trường hợp có các tin tức bất lợi, nhà kinh doanh cũng không cần phải chờ đến giờ mở cửa của một phiên giao dịch nào đó để có thể đóng tất cả các trạng thái giao dịch của mình.
 

AMcenter

New Member
14. NHÀ MÔI GIỚI CÓ VAI TRÒ NHƯ THẾ NÀO TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI?

Nhà môi giới là tổ chức trung gian giữa khách hàng và thị trường Ngoại hối. Nhà môi giới cung cấp cho khách hàng của mình giá niêm yết của các loại tiền tệ cũng như cơ hội giao dịch trên thị trường theo các điều khoản giao dịch đã định trước (Terms of Business).

Thông thường điều khoản giao dịch là một bản chào trong đó nhà môi giới đưa ra các điều kiện tiêu chuẩn của mình và khách hàng phải đồng ý với các điều khoản đó trước khi tiến hành giao dịch. Trong thực tế, nhà môi giới không thể có các thỏa thuận riêng với từng khách hàng về mức chênh lệch giá mua bán hay các điều kiện khác bởi một nhà môi giới phục vụ rất nhiều khách hàng và không thể thỏa thuận các điều khoản khác nhau với từng người trong số đó, bởi vậy mà Điều khoản giao dịch của một nhà môi giới thường giống nhau, ít nhất là đối với số đông khách hàng.

Một công ty môi giới hoạt động trên thị trường Ngoại hối theo ba phương thức:

1. Các lệnh giao dịch của khách hàng không được đưa trực tiếp ra thị trường

Trong trường hợp này nhà môi giới chịu toàn bộ rủi ro với hy vọng rằng khách hàng của mình sẽ thua lỗ và khoản ký quỹ của họ sẽ trở thành tài sản của công ty. Đây chỉ là hình thức bắt chước hoạt động trên thị trường thực và là một dạng lừa đảo nếu công ty thực hiện nó lại thông báo cho khách hàng của mình rằng giao dịch của họ đã được thực hiện trên thị trường thực. Các nhà môi giới hoạt động theo phương thức này có những nhược điểm gì? Thứ nhất, họ đang chơi với lửa khi tự mình gánh lấy toàn bộ rủi ro hối đoái, và sớm hay muộn cũng sẽ phải đối mặt với trường hợp khách hàng kinh doanh thành công, kiếm được những món lời lớn và vì thế làm ảnh hưởng tới khả năng tài chính của họ. Thứ hai, phương thức hoạt động này tạo ra mâu thuẫn lợi ích giữa nhà môi giới (người có lợi nhờ việc khách hàng thua lỗ) và khách hàng (người có lợi khi kinh doanh có lãi).

Vào thời kỳ đầu khi dịch vụ môi giới mới phát triển, có một cụm từ được dùng để chỉ riêng những nhà môi giới kiểu này là “kitchen broker”, nghĩa là những nhà môi giới hoạt động không chính thức và thường đăng ký dưới địa chỉ cá nhân của một trong những thành viên sáng lập. Cuối những năm 90, rất nhiều công ty cũng bắt chước hoạt động môi giới kiểu này. Họ cố gắng thu tiền ký quỹ của khách hàng thật nhanh với hy vọng rằng sớm hay muộn thì anh ta cũng sẽ thua lỗ hết tiền. Đó là lý do tại sao những công ty này luôn đưa ra cho khách hàng càng nhiều mức giá bất lợi càng tốt. Giá cả thường sẽ rất hay biến động thất thường và nhà môi giới hoặc là không thực hiện lệnh cắt lỗ cho khách hàng hoặc thực hiện ở mức giá không có lợi và cố tìm mọi cách tước đoạt tiền của khách hàng bằng hình thức lừa đảo.

Rất may là thời thế đã thay đổi, và những nhà môi giới kiểu lừa đảo như vậy đã dần dần tự hủy hoại danh tiếng và đánh mất khách hàng của mình. Hậu quả của thời kỳ phát triển bùng nổ đó đã từng khiến toàn bộ nghề môi giới nói chung bị nhiều người nhìn nhận một cách phiến diện là một nghề thiếu đạo đức. Tuy nhiên khi dịch vụ này phát triển hoàn thiện hơn, tai tiếng này đã không còn nữa. Thêm vào đó, những loại hình dịch vụ mới xuất hiện và rất nhiều nhà môi giới đã có khả năng cung cấp cho khách hàng cơ hội đặt lệnh giao dịch trực tiếp trên thị trường thực.

2. Nhà môi giới tổng hợp tất cả lệnh giao dịch của khách hàng và mở một trạng thái tổng trên thị trường thực

Đây là phương thức hoạt động phổ biến nhất và được coi như tiêu chuẩn cho các nhà môi giới Ngoại hối. Một lệnh giao dịch với khối lượng được tổng hợp từ tất cả trạng thái giao dịch của khách hàng được xác định dựa trên cơ sở chiến lược quản trị rủi ro của nhà môi giới và lệnh này sẽ được đưa ra thị trường thực thông qua một tổ chức thanh toán bù trừ (clearing company). Kết quả là:

Khách hàng có thể mở các trạng thái giao dịch với giá thị trường ngay lập tức. Nó được gọi là Giao dịch thực hiện ngay vì nhà môi giới tiếp nhận lệnh của khách hàng và sau đó chuyển chúng cho một bên thứ ba.
Khách hàng có thể giao dịch bất kỳ khối lượng nào, bao gồm cả lô nhỏ (mini-lots) và lô siêu nhỏ (macro lots). Do chỉ có một trạng thái tổng hợp được mở trên thị trường thực nên điều quan trọng với nhà môi giới là tổng khối lượng giao dịch của tất cả khách hàng trên một cặp tiền tệ chứ không phải trạng thái của một khách hàng đơn lẻ.
Lợi nhuận của nhà môi giới không phụ thuộc vào việc khách hàng có lãi hay thua lỗ. Đây là điều kiện rất quan trọng đảm bảo tính ổn định và khách quan của nhà môi giới.
Nhà môi giới không có mâu thuẫn lợi ích gì với khách hàng; họ chỉ quan tâm tới chất lượng dịch vụ mình cung cấp để đảm bảo uy tín với khách hàng.
3. Lệnh giao dịch của từng khách hàng được đưa ra thị trường thực

Việc đưa lệnh giao dịch của từng khách hàng ra thị trường thực dường như là việc nhà môi giới nên làm. Tuy nhiên, phương thức hoạt động này của nhà môi giới lại không hề có lợi cho khách hàng mà ngược lại, còn gây nhiều hạn chế. Nếu nhà môi giới đưa tất cả trạng thái của khách hàng ra thị trường thực, mỗi khách hàng sẽ phải đáp ứng yêu cầu về số tiền kí quỹ cũng như khối lượng giao dịch. Các nhà kinh doanh sẽ không còn cơ hội được giao dịch với lô nhỏ hay siêu nhỏ bởi nhà môi giới sẽ không tổng hợp các lệnh giao dịch nhỏ lẻ đó lại. Thêm vào đó, tốc độ thực hiện giao dịch theo phương thức này sẽ rất chậm bởi nhà môi giới không còn đóng vai trò là bên đối ứng nữa và vì vậy, đối với từng giao dịch đơn lẻ, nhà môi giới phải tìm kiếm một bên khác sẵn sàng đóng vai trò đó trên thị trường. Quá trình này có thể mất vài giây, nhưng cũng có thể là vài phút hoặc lâu hơn. So với thời gian thông thường của một giao dịch (2-3 giây) thì đó là khoảng thời gian khá dài.

Hiểu biết đầy đủ về những điều kiện và quy định cụ thể của nhà môi giới mà bạn đã chọn lựa là rất cần thiết bởi đó sẽ là người bạn tin tưởng gửi gắm một số tiền lớn. Điều đó cũng giúp bạn hiểu và dự đoán được ứng xử của nhà môi giới trước những diễn biến khác nhau của thị trường. Một lời khuyên tốt dành cho bạn khi lựa chọn nhà môi giới là hãy tránh những công ty nhỏ, không tên tuổi, mới đi vào hoạt động song lại khẳng định với bạn rằng họ đưa tất cả lệnh giao dịch của khách hàng, bất kể khối lượng, ra thị trường thực; hoặc những công ty đưa ra nhiều điều khoản giao dịch quá có lợi cho bạn. Hãy tham khảo thêm về nội dung này ở phần “Lựa chọn nhà môi giới như thế nào?”.
 

AMcenter

New Member
15. BẠN CÓ CẦN PHẢI LÀ MỘT NHÀ KINH TẾ HỌC ĐỂ CÓ THỂ THÀNH CÔNG TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI?

Câu hỏi trên có thể được diễn đạt theo một cách khác như sau: “Kinh doanh ngoại hối có phải chỉ dành cho số ít các chuyên gia hay nó là cơ hội đầu tư mà tất cả mọi người đều có thể tiếp cận? Và liệu một nhà kinh doanh còn non nớt, không được đào tạo một cách chuyên nghiệp có hy vọng kinh doanh thành công hay không?”

Trong thực tế, quá trình thực hiện giao dịch Ngoại hối khá đơn giản và một người có thể nắm bắt được chúng chỉ trong vòng vài giây. Tuy nhiên, thực tế cũng chứng minh rằng thành công phụ thuộc vào các quyết định giao dịch chứ không phải là kỹ năng thực hiện các thao tác đặt lệnh. Hơn nữa, theo rất nhiều chuyên gia, đến 80% thành công nằm ở khả năng hiểu biết tâm lý con người, nghĩa là khả năng kiểm soát cảm xúc của bản thân, và áp dụng những hiểu biết đó trong quá trình theo đuổi chiến lược kinh doanh. Chắc chắn là kiến thức về kinh tế và tài chính cũng như hiểu biết về các quá trình kinh tế vĩ mô sẽ giúp nhà kinh doanh đưa ra những quyết định đúng đắn, nhưng đó không phải là yếu tố then chốt tạo nên thành công. Thực ra, chính các giáo sư kinh tế học lại thường không có lợi thế bằng một nhà kinh doanh không được đào tạo bài bản nhưng có kinh nghiệm giao dịch thực tế. Kinh doanh ngoại hối là hoạt động thực tiễn chứ không phải lý thuyết học thuật. Thị trường được định hình nhờ các quy luật và những diễn biến lặp lại theo chu kỳ và một nhà kinh doanh thành công sẽ phải dành rất nhiều thời gian để tìm hiểu chúng. Bạn sẽ có được kinh nghiệm thực tế sau quá trình liên tục quan sát thị trường phản ứng trước biến động của các chỉ số kinh tế, tài chính, trước những tin đồn, dự báo hay biến động trên thị trường chứng khoán và hàng hóa.

Tôi vẫn thường hay trích dẫn câu nói nổi tiếng của Albert Einstein: “Mọi thứ nên được biểu đạt càng đơn giản càng tốt, nhưng không được phép đơn giản hơn bản chất của chính nó.” Quy tắc tương tự cũng có thể áp dụng cho thị trường Ngoại hối. Mặc dù các công cụ giao dịch và phương thức giao dịch trên thị trường rất đơn giản, nhà kinh doanh vẫn cần khả năng nhạy bén và quan trọng nhất là kinh nghiệm. Kinh nghiệm là thứ không mua được, cũng không phải tự nhiên mà có như được tặng một món quà, nó chỉ có thể được tích lũy thông qua hoạt động thực tế trên thị trường. Tất cả chúng ra đều hiểu rằng nếu có thể thì tốt hơn là hãy học hỏi từ kinh nghiệm của người khác (và quả đúng là như vậy). Nhưng chúng ta cần phải hiểu và cảm nhận được một sự kiện nào đó sẽ tiến triển như thế nào trong khi chúng đang thực sự diễn ra. Việc sử dụng máy tính cũng vậy. Nó là công cụ cơ bản nhất của mỗi nhà kinh doanh, cung cấp tất cả các điều kiện cần thiết từ tin tức tới các chỉ số kinh tế và kinh doanh, nhưng chỉ sử dụng thành thạo máy tính thôi là chưa đủ để bạn bắt đầu giao dịch.
 

AMcenter

New Member
16. LÀM THẾ NÀO ĐỂ XÁC ĐỊNH ĐƯỢC CHÍNH XÁC XU HƯỚNG CỦA THỊ TRƯỜNG?

Tỷ giá hối đoái của các đồng tiền thường thay đổi một cách bất thường và nhiều khi cho chúng ta cảm giác là việc dự đoán chính xác xu hướng ngắn hạn của chúng là điều không thể. Vậy thì làm thế nào chúng ta có thể gạn lọc được những thông tin hữu ích từ mớ hỗn độn này? Đầu tiên, ta cần học cách phân biệt thị trường ở trạng thái ổn định (consolidating market) và thị trường ở trạng thái biến động - trend market- (theo chiều hướng đi lên – up-trend – hoặc đi xuống – down trend).


Việc này thoạt nghe có vẻ đơn giản, nhưng sự thực thì không phải thế, tuy ở cùng một trạng thái nhưng thị trường có thể có những biểu hiện rất khác nhau ở những giai đoạn khác nhau, như chúng ta thấy trên hình dưới đây. Một xu hướng đi lên trong dài hạn của thị trường thường bao gồm rất nhiều giai đoạn tăng trưởng và suy giảm ngắn hạn nối tiếp nhau.


Thị trường có thể:

Không có chiều hướng rõ ràng và không ổn định;
Trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, giá cả có thể không biến động theo một xu hướng rõ ràng nào, thay vào đó, nó chỉ dao động trong một khoảng hẹp. Đây chính là giai đoạn A trong hình dưới đây (từ 27/04/2006 đến 15/10/2006). Nếu bạn bán hoặc mua đồng euro vào ngày 27 tháng Tư năm 2006 với giá 1.2490, bạn sẽ thấy nửa năm sau đó, giá của đồng euro vẫn quay về mức này sau nhiều biến động thất thường.

Không có xu hướng rõ ràng nhưng ổn định;
Giá cả hầu như chỉ dao động quanh một mức nhất định trong một thời gian dài, nó không biến động và, như bạn thấy trên hình, nó tạo thành một đường gần như nằm ngang. Tình trạng này xuất hiện hoặc là khi không có sự kiện kinh tế chính trị đặc biệt nào diễn ra và các thành phần tham gia thị trường không có cơ sở để đưa ra các quyết định giao dịch hoặc trong các dịp nghỉ lễ khi khối lượng giao dịch sụt giảm đáng kể. Nhìn chung, tình trạng này hiếm khi xuất hiện và nếu xem xét trong một khoảng thời gian dài thì hầu như không bao giờ xảy ra.

Có xu hướng rõ ràng và ổn định
Giá cả thay đổi theo một chiều hướng nhất định mà không có điều chỉnh đáng kể nào theo hướng ngược lại. Đặc điểm của thị trường kiểu này là, khối lượng giao dịch sẽ ở mức thấp nếu như có sự thống nhất trong quan điểm về xu hướng của thị trường. Đây chính là các giai đoạn B và E trong hình dưới.

Có xu hướng rõ ràng nhưng không ổn định
Giá cả thay đổi theo một chiều hướng nhất định với nhiều lần điều chỉnh đáng kể nào theo hướng ngược lại. Diễn biến thị trường từ giai đoạn A đến giai đoạn E trong hình dưới đây được coi là một xu hướng đi lên mặc dù nó rất thiếu ổn định. Các giai đoạn C và D cũng có tính chất tương tự.

Tại bất cứ thời điểm nào, giá cả cũng đều được xác định bởi cung và cầu trên thị trường. Nhưng nhìn chung, đây chỉ là cách tiếp cận đã được đơn giản hóa tối đa. Bạn cần phân tích chỉ số cung/cầu cũng như vai trò của mỗi thành phần tham gia thị trường trong việc xác định giá cả nhằm hiểu rõ ràng và đầy đủ hơn về các yếu tố tác động đến thị trường

– Người bán tiềm năng

– Những người đã bán ra (Short-sellers)

ASK – Giá mua

BID – Giá bán

– những người đã mua vào (long position traders)

– Người mua tiềm năng

Về lý thuyết, bất cứ thành phần nào tham gia vào thị trường, một khi đã mở một trạng thái giao dịch thì đều trở thành người quan sát thụ động đối với thị trường bởi khi đó, họ không còn khả năng tác động tới các diễn biến của thị trường mà họ chỉ có thể làm một điều duy nhất là đóng trạng thái của mình lại. Không ai biết chắc mức giá thỏa đáng của một đồng tiền tại một thời điểm nhất định là bao nhiêu, nhưng có một điều chắc chắn đúng là nếu lượng người mua nhiều hơn người bán thì giá cả sẽ đi lên. Mặt khác, nếu giá cả bắt đầu tăng lên hoặc giảm xuống, những người đang ở vị thế bất lợi sẽ tìm cách loại bỏ những trạng thái giao dịch thua lỗ của mình (điều này lý giải vì sao một số nhà kinh doanh lại bán ra trong khi đáng ra nên mua vào). Đến một thời điểm nào đó, áp lực mua vào và bán ra sẽ cân bằng. Số lượng người mua giảm vì những ai muốn mua thì đã mua vào. Nhưng số lượng người bán thì lại tăng lên – đây là những người đã thực hiện lệnh mua, giờ đây quyết định chốt lời và những người đang đợi giá cả chạm mức nhất định nào đó. Giá cả ngừng tăng, dao động quanh mức nào đó rồi sau đó bắt đầu đi xuống, thường là với tốc độ nhanh không kém gì lúc tăng lên vì trước những dấu hiệu đi xuống đầu tiên của thị trường, những nhà kinh doanh theo chiều hướng ngược lại sẽ nhanh chóng đóng trạng thái của mình để chốt lời. Như chúng ta thấy, tâm lý thị trường quyết định tất cả.

Giá cả tại một thời điểm nào đó là sự phản ánh của tất cả các thông tin liên quan mà tất cả mọi người có được vào thời điểm đó. Do mỗi người lại có những đánh giá khác nhau về tác động của thông tin, thị trường hiếm khi ở trạng thái hoàn toàn ổn định. Ngoài những yếu tố mang tính đầu cơ, tỷ giá tiền tệ còn bị tác động bởi nhu cầu thanh toán cho các hoạt động kinh doanh trong thế giới thực cũng như chính sách quản trị rủi ro của các định chế lớn.

Tuy nhiên, tin tức mới là yếu tố chính gây ra những biến động lên xuống nhanh chóng của giá cả, đôi khi với mức cách biệt rất lớn giữa hai lần yết giá liên tiếp. Vậy lý do dẫn đến cách biệt lớn về giá cả là gì? Hầu như mỗi lần tình trạng này xuất hiện, nguyên do của nó đều là những biến đổi của các chỉ số kinh tế hoặc các sự kiện chính trị có ảnh hưởng lớn tới thị trường. Thông tin mới bao giờ cũng làm thay đổi kỳ vọng của những người tham gia vào thị trường cũng như tỷ lệ cung/cầu, những yếu tố trực tiếp tác động lên giá cả. Tác động của những thông tin này còn được phóng đại lên khi nó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, xuất hiện trong các báo cáo phân tích và tư vấn của các chuyên gia. Người ta bỗng thấy ai ai cũng nói về nó, điều sẽ cho thấy tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của nó trong dài hạn. Giá cả bắt đầu tăng ổn định khi ngày càng có nhiều người bị tác động bởi thông tin đó. Và họ phản ứng bằng cách tác động tới thị trường thông qua các hoạt động giao dịch của mình. Đó là lý do tại sao George Soros từng nói trong các cuốn sách của mình rằng việc nắm bắt được quan điểm đang chi phối thị trường còn quan trọng hơn là những thay đổi trong thực tế.

Những người tham gia thị trường được chia làm ba nhóm chính: người bán, người mua và người chưa quyết định sẽ bán hay mua. Người mua cố gắng mua vào với giá thấp nhất có thể; người bán cố bán ra với giá cao nhất có thể. Tuy nhiên, cả hai nhóm này sẽ sẵn lòng nhượng bộ cho nhau để giao dịch có thể diễn ra. Những người chưa quyết định thì quan sát thị trường với hy vọng hiểu được chiều hướng của giá cả và cố gắng gia nhập thị trường sao cho có lợi cho mình nhất. Chính sự thay đổi trong quan điểm của những người này lại thường là yếu tố quyết định chiều hướng giá cả.

Trong thực tế, việc nắm bắt xu hướng giao dịch của nhóm người chưa quyết định mua hay bán là chưa đủ. Vào bất cứ ngày giao dịch nào các nhà kinh doanh cũng đã có sẵn các trạng thái giao dịch, trạng thái đã mua (long position) trong trường hợp họ đã mua một loại tiền tệ nào đó hoặc trạng thái đã bán (short postion) trong trường hợp họ đã bán một loại tiền tệ nào đó. Xét trên phạm vi rộng, xu hướng giá cả còn được xác định bởi cả những nhà giao dịch này bởi họ sẽ phải quyết định thời điểm đóng trạng thái giao dịch của mình với kết quả có lãi hoặc thua lỗ. Những quyết định như vậy thường được đưa ra khi một cặp tiền tệ đạt tới các mức giá hỗ trợ hoặc kháng cự.
 

AMcenter

New Member
17. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI CÓ NHỮNG ƯU ĐIỂM GÌ SO VỚI CÁC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH KHÁC


[GON]Các thị trường tài chính bao gồm:

Thị trường chứng khoán bao gồm thị trường cổ phiếu và trái phiếu
Các thị trường hàng hóa
Thị trường các công cụ phái sinh
Thị trường ngoại hối

Các cặp tiền tệ là công cụ tài chính của thị trường Ngoại hối. Tại đây người ta dùng một loại tiền tệ này để đổi lấy một loại tiền tệ khác. Trong thị trường Ngoại hối một đồng tiền không thể tăng giá mãi vì điều đó có nghĩa là một đồng tiền khác sẽ trở nên hoàn toàn mất giá và chủ sở hữu của nó sẽ bị phá sản. Về mặt lý thuyết, bất cứ quốc gia nào cũng có thể ở bờ vực phá sản và đồng tiền của nó có nguy cơ mất giá mạnh, tuy nhiên, đây là hiện tượng rất hiếm khi xảy ra trong nền kinh tế hiện đại. Sự phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế cũng đồng nghĩa với việc bất cứ khi nào một sự mất cân bằng kinh tế lớn giữa hai quốc gia xuất hiện thì biến động tỷ giá cũng đồng thời diễn ra và các chính phủ sẽ buộc phải có biện pháp can thiệp kịp thời. Hầu hết đồng tiền của các quốc gia đều được gắn với một trong tám đồng tiền mạnh của thế giới -chiếm tới 99% doanh số giao dịch của thị trường Ngoại hối- hoặc gắn với rổ bao gồm tất cả các đồng tiền này. Đó là lý do vì sao sự phá sản của một quốc gia lại có khả năng gây ra một cuộc khủng hoảng sâu rộng hơn nhiều trong hệ thống kinh tế thế giới nói chung. Các nước phát triển luôn luôn hướng tới sự cân bằng trong các quan hệ kinh tế, và xu hướng này được phản ánh rõ nét trong tỷ giá hối đoái.

Tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu sự khác biệt giữa cơ hội đầu tư trên thị trường Ngoại hối với các thị trường tài chính khác.

Vốn đầu tư ít

Chỉ với vài chục hay vài trăm đô-la Mỹ, nhà đầu tư đã có thể tham gia giao dịch Ngoại hối, điều này làm cho rào cản tham gia thị trường là rất nhỏ. Thị trường ngoại hối còn cho phép các nhà kinh doanh sử dụng đòn bẩy, giúp họ có cơ hội sử dụng nguồn vốn lớn gấp vài trăm lần số tiền ký quỹ ban đầu trong tài khoản của mình. Một khoản đầu tư nhỏ sẽ hạn chế bạn tạo ra lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, nó sẽ là phương tiện hoàn hảo để bạn thử giao dịch thực sự bằng tiền thật và trên thị trường thật. Kinh doanh thành công đòi hỏi bạn phải đầu tư nhiều thời gian và sự rèn luyện. Thế nên những ai chăm chỉ và biết duy trì nguyên tắc đầu tư sẽ gặt hái được rất nhiều thành công. Thực tế là tỷ lệ lợi nhuận/vốn đầu tư trên thị trường Ngoại hối mở ra cho các nhà kinh doanh tại đây cơ hội mà không thị trường nào có được.

Tính thanh khoản cao

Do số lượng đông đảo các thành phần tham gia vào thị trường và khối lượng giao dịch khổng lồ, bất kỳ giao dịch tiền tệ nào trên thị trường Ngoại hối cũng được thực hiện nhanh chóng chỉ trong vòng một vài giây và (quan trọng hơn) là theo đúng giá thị trường. Hai yếu tố này hoàn toàn đối lập với thị trường cổ phiếu. Trên thị trường cổ phiếu, ngày giao dịch bị giới hạn chỉ trong vòng vài giờ và việc một cổ phiếu được chào bán ở một mức giá nào đó không có nghĩa là bạn có thể mua cổ phiếu đó với khối lượng mong muốn tại mức giá đó hay là gần đó.

Dễ dàng tiếp cận

Về mặt kỹ thuật, một nhà kinh doanh chỉ cần có một máy tính cá nhân có nối mạng Internet là có thể tham gia giao dịch. Nhà kinh doanh phải ký hợp đồng với nhà môi giới, sau đó tải và cài đặt phần mềm giao dịch trên máy tính của mình.

Không cần nơi làm việc cố định

Bạn có thể thực hiện giao dịch ở bất kỳ đâu: ở nhà, ở cơ quan, thậm chí cả ở ngoài trời. Hình ảnh một nhà kinh doanh với chiếc máy tính xách tay của mình quả thật vô cùng thích hợp để quảng cáo cho thị trường Ngoại hối. Đương nhiên, khi thực hiện một công việc nghiêm túc bao giờ người ta cũng cần phải tập trung cao độ, và một môi trường thuận lợi cho việc đó là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, nhà kinh doanh ngoại hối không bị bó buộc vào thời gian hay địa điểm giao dịch, điều này sẽ thuận lợi hơn rất nhiều cho những nhà kinh doanh không chuyên, chỉ dành một phần thời gian vào việc đầu tư Ngoại hối.

Thị trường hoạt động liên tục

Bạn có thể thực hiện giao dịch 24 giờ một ngày, năm ngày một tuần từ thứ Hai đến thứ Sáu. Điều này giúp bạn phản ứng ngay lập tức truớc các sự kiện không lường trước.

Chi phí xử lý giao dịch thấp

Đối với một khách hàng, chi phí xử lý giao dịch là khoảng chênh lệch giữa giá chào mua và giá chào bán (spread), không bao gồm các chi phí cho máy tính và truy cập Internet. Nhờ chi phí xử lý giao dịch thấp và không có hoa hồng môi giới mà các nhà kinh doanh cá nhân có thể dễ dàng tham gia giao dịch Ngoại hối như một hình thức đầu tư đơn giản và thuận tiện chỉ với những khoản tiền ký quỹ nhỏ.

Số lượng công cụ giao dịch phong phú

Rất nhiều cặp tiền tệ có tính thanh khoản cao được giao dịch hàng ngày trên thị trường ngoại hối. Trên cùng một phần mềm giao dịch, bên cạnh kinh doanh hối đoái tiền tệ, các nhà môi giới cũng thường cung cấp cả các Hợp đồng Chênh lệch, hay còn gọi là CFD (Contracts for Difference), kim loại quý (Vàng, Bạc), và các hợp đồng tương lai trong cho khách hàng của mình. Các nhà kinh doanh có thể lựa chọn các cặp tiền tệ phù hợp nhất với chiến lược kinh doanh của mình đồng thời đầu tư vào các công cụ giao dịch khác nhằm quản lý rủi ro một cách hiệu quả. Cần lưu ý rằng, khái niệm “đi lên” (bull market) hay “đi xuống” (bear market) trên thị trường Ngoại hối chỉ mang tính tương đối bởi trong cùng một giao dịch chúng ta mua vào một ngoại tệ này cũng có nghĩa là chúng ta đang bán ra một ngoại tệ khác. Trong cặp tiền tệ đó, một đồng tiền giảm giá thì cũng có nghĩa là đồng tiền kia đang tăng giá và nhà kinh doanh có thể kiếm lời từ cả đồng tiền đang tăng giá lẫn đồng tiền đang giảm giá. Bởi vậy, thị trường nhìn chung không bao giờ trải qua cái gọi là tình trạng “đi xuống”. Điều này không giống như trên thị trường cổ phiếu, khi tình trạng “đi lên” được coi là bình thường, và một nhà kinh doanh mong muốn kiếm lời từ một cổ phiếu đang giảm giá sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn về mặt kỹ thuật và nhìn chung là phải gánh chịu mức rủi ro cao. Thường thì việc này gần như là không thể tại các thị trường cổ phiếu chưa phát triển đầy đủ.

Chúng ta hãy cùng xem xét một cách cụ thể hơn sự khác biệt giữa thị trường Ngoại hối và thị trường cổ phiếu. Như đã nói ở trên, điều quan trọng nhất đối với thị trường cổ phiếu là giá cả phải đi lên, đây cũng được xem là điều kiện thuận lợi nhất cho việc kiếm lời ở những thị trường có quy mô nhỏ và với các cổ phiếu có tính thanh khoản không cao. Bên cạnh đó, trong số rất nhiều công ty khác nhau được niêm yết trên thị trường, trước khi đưa ra quyết định lựa chọn một cổ phiếu nào đó, bạn cần phải nghiên cứu lĩnh vực kinh doanh mà công ty đó đang hoạt động. Hơn nữa, bạn còn cần phải có những hiểu biết cơ bản về các chỉ số tài chính cũng như biết cách đọc báo cáo tài chính hàng quý và thường niên của các công ty này nhằm đánh giá được vị thế tài chính và mức độ hấp dẫn đầu tư của chúng. Hãy cùng nhìn vào bảng dưới đây:

Hãy cùng tiếp tục so sánh thị trường Ngoại hối với thị trường các hợp đồng tương lai. Đầu tiên, khối lượng giao dịch của thị trường Ngoại hối lớn gấp 45 lần khối lượng giao dịch của thị trường tương lai. Bảng sau đây chỉ ra những khác biệt cơ bản giữa hai thị trường này:
[/GON]
 
Last edited by a moderator:

AMcenter

New Member
18. LỰA CHỌN NHÀ MÔI GIỚI TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI NHƯ THẾ NÀO?


[GON]
Để kinh doanh thành công trên thị trường Ngoại hối, điều đầu tiên bạn cần làm là lựa chọn một nhà môi giới cho mình. Đây là yếu tố quan trọng nhất bởi nhà môi giới chính là người cung cấp các mức giá để bạn tiến hành giao dịch cũng như giải quyết các vướng mắc nảy sinh và hỗ trợ tư vấn về mặt kỹ thuật.

Đầu tiên hãy cố gắng tìm hiểu càng nhiều thông tin càng tốt về công ty môi giới mà bạn định lựa chọn: quy mô công ty, địa chỉ đăng ký kinh doanh, các công ty con, đối tác của công ty (tổ chức thanh toán bù trừ nào), và Trung tâm giao dịch và dịch vụ khách hàng của nó ở đâu.

Nếu giao dịch của bạn được tiến hành một cách suôn sẻ, bạn sẽ không cần phải liên hệ với giao dịch viên hoặc bộ phận hỗ trợ kỹ thuật, tuy nhiên, bạn nên có trong tay số điện thoại của họ để phòng khi cần thiết, điều này tương tự như bạn luôn lưu giữ số điện thoại của dịch vụ cấp cứu hay cứu hỏa vậy.

Nếu có thể, hãy cố gắng liên lạc trực tiếp với nhân viên của công ty môi giới bạn định lựa chọn để tìm hiểu xem tổ chức thanh toán bù trừ cho công ty đó là tổ chức nào. Nếu họ không biết gì về điều này hay thậm chí không biết thuật ngữ “thanh toán bù trừ” là gì thì đó là dấu hiệu xấu cho thấy bạn nên lựa chọn một nhà môi giới khác. Trong thời điểm hiện nay, việc tìm kiếm thông tin đã trở nên hết sức dễ dàng nhờ có mạng Internet: hãy tìm hiểu website chính thức của công ty, thứ hạng của công ty do các tổ chức xếp hạng đánh giá, tham gia các diễn đàn Ngoại hối khác nhau, nơi các nhà kinh doanh thảo luận với nhau về các nhà môi giới cũng như những khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình giao dịch với họ.

Tiêu chí chính để lựa chọn công ty môi giới là

Điều khoản giao dịch

Phần lớn các công ty môi giới đều đưa ra những điều khoản giao dịch tương tự nhau. Tuy nhiên, trước khi có lựa chọn cuối cùng, hãy kiểm tra điều khoản giao dịch của một nhà môi giới nào đó thông qua phần mềm giao dịch thực tế mà nhà môi giới đó cung cấp. Để làm điều này, bạn chỉ cần mở một tài khoản demo hoặc một tài khoản thực nhưng có số dư rất nhỏ với nhà môi giới bạn lựa chọn.

Nếu bạn đang phân vân giữa một vài công ty môi giới, hay chú ý đến những điều khoản giao dịch sau:

Khoảng chênh lệch giá chào mua và giá chào bán (Spread) tại một thời điểm xác định. Khoảng chênh lệch này càng nhỏ thì càng có lợi cho bạn, nhưng hãy chắc chắn rằng nhà môi giới sẽ không thay đổi nó trong quá trình giao dịch. Một vài nhà môi giới chào khoảng chênh lệch tối thiểu là 2 điểm phần trăm đối với một cặp tiền tệ xác định. Điều này có thể được hiểu là khi thị trường không có diễn biến đặc biệt, mức chào này sẽ không thay đổi; nhưng khi những sự kiện có tầm ảnh hưởng lớn diễn ra thì khoảng chênh lệch mà nhà môi giới ấn định có thể lên tới 5, thậm chí 10 điểm phần trăm. Nhà môi giới có thể biện minh cho việc làm này là thị trường đang gặp vấn đề về thanh khoản mà không gặp rắc rối về pháp lý.
Đòn bẩy: được sử dụng với các khoản đầu tư nhỏ (trên thị trường ngoại hối, khoản tiền dưới 50.000 đô-la Mỹ được coi là nhỏ). Thường thì tỷ lệ đòn bẩy tiêu chuẩn là 1:100 hoặc 1:200. Khoản đầu tư của bạn càng lớn thì tỷ lệ đòn bẩy càng thấp. Điều khoản giao dịch linh hoạt sẽ cho phép khách hàng thay đổi tỷ lệ này. Sử dụng tỷ lệ đòn bẩy cao chưa chắc đã là một lợi thế vì nó không làm giảm rủi ro mà chỉ giúp khách hàng không phải ký quỹ một số tiền quá lớn để thực hiện giao dịch. Với những người mới bắt đầu kinh doanh, sử dụng tỷ lệ đòn bẩy cao có thể là một yếu tố tiêu cực bởi nó kích thích họ giao dịch ở quy mô lớn trong khi chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài ra, để quản lý rủi ro một cách hiệu quả thì đối với một khoản đầu tư lớn, việc sử dụng tỷ lệ đòn bẩy cao cũng không được khuyến khích.
Hoa hồng môi giới và các loại phí khác. Hãy chắc chắn là nhà môi giới không tính phí hoa hồng trên các giao dịch Ngoại hối của bạn. Đây là thông lệ, nếu không tính đến các Hợp đồng Chênh lệch, hay còn gọi là CFD (Contracts for Difference). Với các hợp đồng này, các nhà môi giới thường tính phí hoa hồng tương đương 0.15% tổng giá trị giao dịch thành công. Đồng thời, lãi suất mà nhà môi giới tính cho số dư trên tài khoản giao dịch của bạn cũng là một điều khoản đáng xem xét. Mặc dù lãi suất này thường tương đối thấp, thấp hơn so với lãi suất ngân hàng, nhưng bạn chắc chắn sẽ nhận được số lãi này một cách vô điều kiện.
Hạn mức dừng giao dịch (Stop Out Level) là biện pháp quản lý rủi ro trong đó nhà môi giới sẽ tự động đóng tất cả các trạng thái giao dịch của một khách hàng nếu tài khoản của anh ta không còn đủ số dư. Thường thì hạn mức này là 30-50% mức kỹ quỹ. Hạn mức dừng giao dịch 30% có nghĩa là nhà môi giới sẽ đóng các trạng thái của khách hàng để hạn chế rủi ro nếu số dư tài khoản của anh ta không đủ hoặc anh ta đã thua lỗ đến 70% số tiền ký quỹ. Bạn phải tìm hiểu hạn mức dừng giao dịch mà nhà môi giới áp dụng mặc dù đây không phải là yếu tố quá quan trọng khi lựa chọn nhà môi giới. Theo quy luật, nhà kinh doanh một khi đã chạm tới hạn mức dừng giao dịch thì thường là không có khả năng áp dụng đúng đắn các kỹ thuật quản lý rủi ro.
Chi phí và sự thuận tiện khi chuyển tiền. Các công ty môi giới có văn phòng đại diện tại nơi bạn cư trú thường thanh toán cho bạn thông qua các ngân hàng địa phương hoặc hệ thống thanh toán điện tử. Điều này cho phép tiết kiệm được thời gian và giảm các chi phí liên quan đến nộp và rút tiền từ tài khoản giao dịch của bạn.
Hỗ trợ kỹ thuật và các dịch vụ khác. Bộ phận kỹ thuật của công ty môi giới thường hỗ trợ khách hàng liên tục 24 giờ trong ngày khi khách hàng có yêu cầu qua điện thoại hoặc thư điện tử. Hầu hết các công ty môi giới đều có dịch vụ cung cấp thông tin và phân tích bao gồm đánh giá cơ bản và phân tích kỹ thuật về diễn biến thị trường, cung cấp các bài viết, dự báo và báo cáo phân tích hàng ngày.
Phần mềm giao dịch hữu dụng và thân thiện. Phần mềm giao dịch là công cụ mà bạn sẽ sử dụng hàng ngày, do đó nó phải thực sự thân thiện và hữu dụng. Bên cạnh sự tiện lợi, bạn cũng cần tính đến các yêu cầu cần thiết để cài đặt phần mềm cũng như tốc độ kết nối Internet. Hãy thử cài đặt phần mềm đó để chắc chắn rằng các yếu tố kỹ thuật trong khi giao dịch được hiển thị đầy đủ và rõ ràng và rằng các điều khoản giao dịch của nhà môi giới giống với những gì họ công bố. Sử dụng một phần mềm giao dịch tiêu chuẩn được lựa chọn bởi các nhà môi giới trên toàn thế giới cũng được coi là một ưu điểm bởi nó có nghĩa là nếu bạn có phải thay đổi nhà môi giới thì bạn cũng đã quen thuộc với phần mềm mà nhà môi giới mới của bạn sử dụng. MetaTrader do MetaQuotes Software Corp. phát triển là một phần mềm thông dụng. Nó được trên 300 công ty môi giới lớn sử dụng và thường xuyên được nâng cấp và cải tiến.
Số dư tối thiểu và khối lượng giao dịch tối thiểu. Số dư tối thiểu là số tiền nhỏ nhất mà bạn phải nộp vào tài khoản của mình để có thể bắt đầu giao dịch. Khách hàng có quyền lựa chọn số tiền mà mình sẽ nộp. Rất nhiều người cho rằng việc chỉ phải nộp một khoản tiền nhỏ ban đầu là một ưu điểm bởi khi thử nghiệm một chiến lược kinh doanh mới, đặc biệt là nếu chiến lược này đòi hỏi phải mở một vài trạng thái giao dịch cùng lúc thì trước hết nhà kinh doanh sẽ chỉ sử dụng một số tiền rất nhỏ để chắc chắn rằng chiến lược của mình sẽ sinh lời. Hơn nữa, giao dịch với khối lượng nhỏ và siêu nhỏ sẽ rất hấp dẫn đối với những người mới bắt đầu bởi rủi ro tiềm ẩn trong những giao dịch này rất thấp và họ sẽ tránh được nguy cơ thua lỗ lớn trong khi vẫn có cơ hội thử nghiệm các chiến lược kinh doanh khác nhau trong đó có cả những chiến lược tương đối phức tạp, đòi hỏi phải cùng lúc mở nhiều trạng thái giao dịch khác nhau.
Đảm bảo tính chính xác trong khi thực hiện giao dịch. Giá của một cặp tiền tệ thay đổi khoảng hơn 20 nghìn lần mỗi ngày. Những thay đổi này thường nhỏ và không có xu hướng rõ ràng. Chúng là bằng chứng cho thấy có rất nhiều người mua và bán trên thị trường và rằng các giao dịch được thực hiện liên tục. Mỗi khi muốn mua hoặc bán một lượng ngoại tệ nào đó, bạn gửi yêu cầu đến cho nhà môi giới của mình và nhà môi giới sẽ kiểm tra xem mức giá mà bạn đưa ra có tương thích với giá thị trường tại thời điểm đó hay không. Sau đó, nhà môi giới sẽ hoặc là xác nhận đã thực hiện giao dịch của bạn hoặc thông báo cho bạn biết rằng mức giá đã thay đổi và giao dịch có thể được thực hiện ở một mức giá khác. Độ chính xác của giá cả phụ thuộc vào hai yếu tố chính. Thứ nhất là độ tương thích với giá thị trường tại thời điểm hiện tại và thứ hai là mức giá đó phải thực tế, nghĩa là nó phải được chấp nhận trên thị trường. Nếu giá do nhà môi giới của bạn đưa ra luôn thấp hơn hoặc cao hơn giá thị trường (bạn có thể dễ dàng kiểm tra điều này bằng cách sử dụng nhiều nguồn thông tin về tỷ giá hối đoái khác nhau) thì đó là dấu hiệu cho thấy nhà môi giới của bạn đang làm giá hoặc hệ thống xác định giá của họ không đủ khả năng bắt kịp giá thị trường. Trong cả hai trường hợp, bạn nên tránh giao dịch với nhà môi giới đó. Thông thường, giá của các nhà môi giới khác nhau sẽ chênh nhau vài điểm phần trăm, chủ yếu là do họ sử dụng các phương thức thanh toán bù trừ khác nhau; điều này là hoàn toàn bình thường và không mang đến bất cứ rủi ro khác thường nào cho nhà kinh doanh.[/GON]
 
Last edited by a moderator:

AMcenter

New Member
19. THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI, ĐẦU TƯ HAY ĐÁNH BẠC?



[GON]Nếu ngồi trước màn hình máy tính chỉ là một chú khỉ và chú ta đã học được cách ấn vào các phím khác nhau để thực hiện lệnh Bán và Mua trên thị trường Ngoại hối thì cơ hội để chú ta kiếm lời là 50/50.
Tuy nhiên, do luôn luôn có sự khác biệt giữa giá mua và giá bán trong tất cả các giao dịch nên trong dài hạn, kết quả mà chú khỉ này có được vẫn sẽ chỉ là thua lỗ cho dù 50% các giao dịch ngẫu nhiên mà chú ta thực hiện là đúng đắn. Vậy thì tại sao, trong một sòng bạc, nơi mà cơ hội thắng cũng là gần 50/50, các tay chơi lại chỉ lấy lại được 30% tổng số tiền mà họ đã nướng vào đó? Đơn giản là vì mỗi người trong số họ chỉ có một số tiền hữu hạn nào đó và sẽ rời bỏ cuộc chơi khi thua lỗ. Hoặc, khi thắng được một lần, họ lại có xu hướng muốn mạo hiểm để thắng lớn hơn và tiếp tục chơi cho đến khi thua hết sạch.

Điểm khác biệt cơ bản của đầu tư so với cá cược chính là khả năng dự báo được các sự kiện diễn ra trên thị trường và biết cách áp dụng chúng vào trong giao dịch. Trên các thị trường tài chính luôn luôn sẵn có những công cụ phân tích giúp nhà kinh doanh hiểu được điều gì đang diễn ra trên thị trường để áp dụng chiến lược kinh doanh phù hợp.

Vậy thì tại sao phần lớn các nhà kinh doanh khi mới bắt đầu đều gặp thất bại? Yếu tố tâm lý kết hợp với sự thiếu hiểu biết về tâm lý thị trường thường dẫn đến tình trạng nhà kinh doanh không nhận ra rằng chính mình đang bị ảnh hưởng bởi điều này, và đang đi lạc khỏi chiến lược kinh doanh ban đầu. Khi đó, họ thường có xu hướng giao dịch với rủi ro cao và cuối cùng là chịu thua lỗ lớn. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người luôn có xu hướng đánh giá quá cao khả năng của bản thân. Các nhà kinh doanh cá nhân cũng vậy, họ không có đối trọng nào để làm cơ sở so sánh và đánh giá chính mình. Họ sẽ luôn luôn tìm ra lý lẽ để biện minh cho quan điểm của bản thân, bất kể nó đúng hay sai. Kết quả là họ phải trả giá cho những sai lầm của mình. Thị trường luôn luôn biến động, và những ai không biết tự điều chỉnh mình để thích nghi với những biến động đó tất yếu sẽ phải chịu thua thiệt.

Mặc dù có những điểm khác nhau cơ bản, giữa đầu tư và cá cược vẫn có một điểm chung, đó là tính chất quyết định của yếu tố thời điểm: khi đã quyết định sẽ mua vào một ngoại tệ nào đó, bạn có thể thực hiện giao dịch ngay hoặc là chờ đợi với hy vọng có được giá tốt hơn. Tuy nhiên, thường thì quá trình chờ đợi sẽ khiến bạn phải trả giá cao hơn, và bạn lại phải lựa chọn giữa việc mua vào với giá đó hay là tiếp tục chờ đợi. Chính vì thế, việc không để bị yếu tố may rủi trong giao dịch kéo đi quá xa là rất quan trọng với nhà kinh doanh. Chiến lược vẫn luôn cần được đặt lên hàng đầu.

Sòng bạc, nơi thường được nhiều người liên tưởng đến khi nghĩ về thị trường ngoại hối, thực chất chỉ là việc thực hiện một loạt phép toán xác suất với kỳ vọng âm và là một trò chơi thực sự theo nghĩa đen của từ đó. Thị trường Ngoại hối thì không giống như vậy, nó cho phép người tham gia thu thập dữ liệu và sau đó ra quyết định dựa trên những thông tin thu được mà những thông tin này chắc chắn có ảnh hưởng tới khả năng thành công của họ. Việc phân biệt giữa trò chơi may rủi và đầu tư thực ra dễ hơn bạn tưởng rất nhiều. Hãy cố gắng trả lời ba câu hỏi sau:

1.Bạn có chiến lược kinh doanh khi tham gia thị trường hay không?

2.Bạn đã thử áp dụng chiến lược đó trên thị trường thực với một số tiền đầu tư thực chưa?

3.Bạn có đủ vốn để tiếp tục theo đuổi chiến lược kinh doanh của mình không?

Một nhà đầu tư chắc chắn sẽ trả lời “có” với cả ba câu hỏi này. Nếu câu trả lời của bạn cho bất kỳ câu hỏi nào ở trên là “không” thì có nghĩa là bạn vẫn chưa thực sự chuyển từ vị thế một người chơi cá cược sang một nhà đầu tư. Hãy nghĩ về một câu hỏi tương tự: xe ô tô đối với bạn là một thứ đồ chơi hay phương tiện đi lại. Câu trả lời còn tùy thuộc vào bản thân bạn phải không. Kinh doanh trên thị trường Ngoại hối có thể là một trò chơi thú vị, nhưng cũng có thể là một công cụ đắt giá để bất kỳ ai khẳng định bản thân mình.

Vậy thì, câu trả lời cuối cùng của tôi cho câu hỏi đặt ra từ đầu chương này là: “Tốt nhất bạn nên chơi cá cược ở sòng bài và đầu tư trên thị trường Ngoại hối”.[/GON]


p/s : Lang đề xuất việc thu gọn bài viết như thế cho người đọc đỡ bị choáng với nội dung được hiện ra ! về cơ bản, khi đc thu gọn, người đọc sẽ thấy bình thường hơn! tuy nhiên, nếu bạn ko thích thì cứ edit lại như cũ nhé, Lãng sẽ xóa nội dung p/s này sau 1 tuần nếu bạn ko có chỉnh sữa gì! chúc vui!

Em đồng ý! Có ý kiến gì góp ý anh cứ thẳng thắn nhé! Cảm ơn anh!
 
Chỉnh sửa cuối:

AMcenter

New Member
20. KINH DOANH TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI TỐN BAO NHIÊU THỜI GIAN

Tôi vẫn thường được hỏi: “Liệu hai giờ dành cho việc kinh doanh có đủ để thành công hay không?” Vấn đề ở đây là, người hỏi đã tự giả thuyết rằng càng đầu tư nhiều thời gian thì nhà kinh doanh sẽ càng thành công. Nhưng không may thay, hai yếu tố này không hề có mối tương quan trực tiếp nào với nhau.
Nhiều nhà kinh doanh khi mới bắt đầu đã cho rằng nếu một nhà đầu tư dành trọn cả ngày để ngồi trước màn hình máy tính thì kết quả kinh doanh của anh ta sẽ khá hơn. Không nhất thiết phải như vậy. Thành công trong kinh doanh phụ thuộc rất nhiều vào thời gian bạn bỏ ra để hiểu được điều gì đang diễn ra trên thị trường chứ không phải là thời gian bạn dùng để thực hiện các lệnh mua và bán ở đó. Nhìn chung, để hiểu được diễn biến của thị trường, những người mới bắt đầu bao giờ cũng sẽ mất nhiều thời gian hơn những người đã có kinh nghiệm. Tôi không nhớ chính xác nguồn thông tin, nhưng đã nghe kể một câu chuyện thế này: Một nhà kinh doanh bật máy tính của mình lên vào sáng sớm, xem xét một lượt các thông tin và dự báo mới nhất trong khi chờ một tin tức quan trọng về một chỉ số kinh tế vĩ mô nào đó được công bố. Một lúc sau, tin tức đó được chính thức công bố và xem ra có vẻ có lợi cho đồng đô-la Mỹ. Anh ta quyết định mua đồng tiền này vào. Nửa giờ sau, tốc độ tăng giá có dấu hiệu giảm dần, còn anh ta đã có khoản lời 1000 đô-la. Không muốn mạo hiểm với số lợi nhuận đã có được, anh ta quyết định bán ra, kết thúc một quá trình giao dịch hoàn hảo. Đến 9 giờ sáng, máy tính đã tắt và nhà kinh doanh này đã có thể bắt đầu tận hưởng cuộc sống.

Có bao nhiêu phần chân thực trong câu chuyện này? Nó chỉ là chuyện thần tiên đối với những người mới bắt đầu, nhưng kể cả với những người đã có kinh nghiệm thì không phải lúc nào nó cũng xảy ra. Những nhà kinh doanh chuyên nghiệp hẳn sẽ hiểu rằng để đạt được kết quả một cách dễ dàng như vậy thì người đó hẳn đã phải trả qua những quãng thời gian dài đầy khó khăn khi phải đối mặt với những nghi ngờ và thiếu kiên định của chính bản thân mình trước khi thực sự hiểu thị trường diễn biến ra sao.

Một huấn luyện viên bóng rổ nổi tiếng từng làm nhiều người ngạc nhiên khi phát biểu trong một lần phỏng vấn rằng một vận động viên bóng rổ không nên luyện tập quá 6 giờ mỗi ngày bởi luyện tập quá thời gian nói trên sẽ làm cơ thể kiệt sức và không có tác dụng. Tương tự như trong thể thao, việc phân tích thị trường suốt cả ngày nhằm chờ đợi đến lúc bạn hiểu được mọi thứ và kiếm tiền mà không cần nỗ lực là điều vô nghĩa. Bạn chỉ nên dựa vào những nguồn thông tin đầy đủ và đáng tin cậy và ra quyết định hoặc giao dịch ngay khi xu hướng của thị trường trở nên rõ ràng, hoặc không giao dịch trong trường hợp thông tin và kết quả phân tích của bạn trái ngược nhau. Thông tin trái ngược là một trong những dấu hiệu rõ ràng cho thấy thị trường sẽ không dễ đoán dù có thêm nhiều thông tin hơn nữa. Mục tiêu của bạn là lợi nhuận, và việc hiểu diễn biến của thị trường cũng chỉ là phương tiện mà thôi. Tóm lại, tôi muốn nói rằng, một khi đã tham gia vào thị trường bạn phải là một người thực dụng và đặt lợi ích của mình lên trên hết.

Vậy điểm mấu chốt phân biệt một nhà kinh doanh mới bắt đầu và một nhà kinh doanh chuyên nghiệp là gì? Những người mới bắt đầu cố gắng dự đoán đúng mọi diễn biến của thị trường cứ như thể đó là mục tiêu thực sự của họ. Những người chuyên nghiệp thì khác, họ không có tham vọng như vậy, họ hài lòng với những chiến lược kinh doanh giúp họ kiếm được lợi nhuận.

Vậy thì câu trả lời của tôi cho câu hỏi này sẽ là: thời gian hợp lý dành cho việc kinh doanh ngoại hối sẽ là khoảng thời gian đủ để bạn xây dựng và thực hiện một chiến lược kinh doanh có hiệu quả chứ không phải để bạn hiểu biết mọi thứ.
 
Top